Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 125/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 621/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 110/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thái H, sinh năm 1991; thường trú: Số 5 (số cũ 5/54) đường L, khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Phúc N, sinh năm 1988; thường trú: Số 43, Đường C, Trung tâm hành chính, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Đặng Thái H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thái H và anh Trần Phúc N sau thời gian tự nguyện tìm hiểu, tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 6, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 58, cấp ngày 07/7/2017. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ chị H tại địa chỉ số 5 (số cũ 5/54) đường L, khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống với nhau không có hạnh phúc. Nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, anh N thường xuyên say xỉn, không có trách nhiệm với gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Vợ chồng đã ly thân gần 02 năm nay, sau khi ly thân, vợ chồng đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Nay nguyên đơn xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bị đơn. Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có một người con chung tên Trần Nguyên K, sinh ngày 29/6/2018, hiện đang sống chung với nguyên đơn. Sau khi ly hôn, nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Trần Phúc N Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, yêu cầu bị đơn có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; triệu tập hợp lệ để cung cấp bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 29/7/2019; tham gia phiên tòa vào các ngày 24/9/2019 và ngày 18/10/2019 nhưng vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến đối với yêu cầu của chị Toán và cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án.

- Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị H và anh N do Tòa án tiến hành ngày 08/7/2019, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau: Chị H và anh N trước khi nộp đơn khởi kiện xin ly hôn tại Tòa án chị H không yêu cầu chính quyền địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Quá trình chung sống, thực tế mâu thuẫn giữa hai vợ chồng, vấn đề chăm sóc, nuôi dạy con chung như thế nào chính quyền địa phương không nắm rõ vì không thấy đại diện khu phố hay địa phương phản ánh phản ánh, cung cấp thông tin gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo qui định của pháp luật.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Sự chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật liên quan. Bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.

Về hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống không hạnh phúc do mâu thuẫn kéo dài, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn và yêu cầu giải quyết về con chung là có cơ sở chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 06/9/2019 và ngày 24/9/2019 nhưng đều vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Về hôn nhân: Năm 2017 chị Đặng Thái H và anh Trần Phúc N tự nguyện tìm hiểu tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 6, thành phố Đ, tỉnh L theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 58, cấp ngày 07/7/2017 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[3] Nguyên đơn xác định sau khi kết hôn, vợ chồng sống không có hạnh phúc do cả hai người không hợp tính tình, bị đơn thường xuyên say xỉn, không có trách nhiệm với gia đình. Mặc dù nguyên đơn đã khuyên nhủ nhiều nhưng bị đơn không thay đổi. Từ đó dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không tìm được tiếng nói chung, làm cho không khí gia đình ngột ngạt nên tình cảm của nguyên đơn giành cho chồng cũng phai nhạt dần và vợ chồng đã sống ly thân 02 năm nay. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập nguyên đơn đến làm việc, hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bị đơn không có mặt. Vì vậy, Tòa án không thể hòa giải đoàn tụ quan hệ ho6nnnha6n của vợ chồng anh N và chị H được.

[4] Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc bị đơn không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với nguyên đơn cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Tòa án chấp nhận.

[5] Về con chung: Chị Đặng Thái H và anh Trần Phúc N có một con chung tên Trần Nguyên K, sinh ngày 29/6/2018. Hiện con chung đang ở cùng với mẹ. Sau khi ly hôn, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt của con chưa thành niên. Trong suốt quá trình tố tụng mặc dù đã được Tòa án niêm yết các văn bản có nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn cho bị đơn nhưng bị đơn không có ý kiến gì. Xét thấy, cháu K từ nhỏ đến nay sống chung với mẹ và được quan tâm chăm sóc nhiều và vẫn phát triển tốt. Do đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[6] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của nguyên đơn nên Tòa án ghi nhận.

[7] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[8] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương là có căn cứ.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 227, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đặng Thái H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thái H được ly hôn với anh Trần Phúc N.

- Về con chung: Anh Trần Phúc N phải giao con chung Trần Nguyên Khôi, sinh ngày 29/6/2018 cho chị Đặng Thái H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Đặng Thái H tự nguyện không yêu cầu anh Trần Phúc N cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, anh Trần Phúc N và chị Đặng Thái H đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở ông bà thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thái H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí về ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0028820 ngày 27/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 125/2019/HNGĐ-ST ngày 18/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:125/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về