Bản án 124/2021/HS-ST ngày 04/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 124/2021/HS-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 5 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 78/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Phạm Trọng Th; sinh ngày 15/4/1987 tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ C, khu C, phường P, Tp M, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ D, khu DB, phường H1, Tp H, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Mua bán và sửa chữa điện thoại; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn V và bà: Vũ Thị Ng; Có vợ: Bài Thị Hu Quế (đã ly hôn) và 02 (Hai) con; Tiền án, tiền sự: Không; Đang thực hiện Lệnh cấm đi khởi nơi cư trú kể từ ngày 22/4/2021 cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm số 102/2021/LCĐKNCT-TA ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long. Có mặt.

2. Nguyễn Quang T; sinh ngày 31/3/1995 tại tỉnh Phú Thọ; Nơi ĐKHKTT: khu Mi, xã Mi, huyện K, tỉnh Phú Thọ; Chỗ ở: Tổ D, khu A, phường H2, Tp H, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Quang Thi và bà: Hoàng Thị Y; Có vợ: Trần Thị Hồng Ha và 01 (Một)) con; Tiền án, tiền sự: Không; Đang thực hiện Lệnh cấm đi khởi nơi cư trú kể từ ngày 22/4/2021 cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm số 103/2021/LCĐKNCT-TA ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long. Có mặt.

* Bị hại:

1./ Cửa hàng phụ kiện điện thoại X. Địa chỉ: số 149 đường Q, thị trấn Q, G, Hà Nội. Người đại diện theo ủy quyền: Trần Nam The, sn 1998. Nơi ĐKHKTT: khu H, xã P, huyện C, tỉnh Phú Thọ; Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt;

2./ Cửa hàng Y. Địa chỉ: số 31 phố Ta, Kh, Đ, Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Đức Vi, sn 1994. Địa chỉ: số 31 phố Ta, Kh, Đ, Hà Nội. Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt;

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần giao hàng Z. Địa chỉ: Tòa nhà VX số 8 Ph, phường Tr, quận L, Hà Nội. Người được ủy quyền: Trịnh Tuấn Hu, sn 1997. Địa chỉ: Tổ 31, phường L, Tp N, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

+./ Nguyễn Mạnh To, sn 1995. Địa chỉ: Tổ 21, khu 2, phường B, thành phố H.

Vắng mặt;

+./ Nguyễn Thị Hồng Nh, sn 1993. Địa chỉ: Tổ 41, khu 4B, phường C, thành phố H. Vắng mặt.

+./ Đỗ Văn Kh, sn 1999. Địa chỉ: thôn Kh, xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt;

+./ Ngô Quang Ti, sn 1988. Địa chỉ: khu Hk, phường N, Tp M, tỉnh Quảng Ninh.

Vắng mặt;

+./ Phạm Thị Hu, sn 1970. Địa chỉ: Tổ 4, khu 1, phường H2, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt;

+./ Trần Thị Hồng Ha, sn 1998. Địa chỉ: Tổ 4, khu 1, phường H2, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Quang T là nhân viên giao hàng của Công ty cổ phần giao hàng Z (kho Yết Kiêu - Tp Hạ Long), ngày 17/9/2020 T gặp Phạm Trọng Th (anh họ của vợ T làm nghề sửa chữa, mua bán điện thoại) Th đề xuất T đặt mua điện thoại qua mạng xã hội sau đó tráo linh kiện rồi dùng thủ đoạn gian dối để trả lại cho cửa hàng đã đặt mua để chiếm đoạt tài sản, nhận thấy kẽ hở này dễ thực hiện, T đồng ý và cung cấp địa chỉ nhận hàng đồng thời có trách nhiện nhận hàng, giao, trả hàng lại cho nơi bán; Th mua sim điện thoại mới, tạo Facebook ảo để đặt và mua hàng, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 17/9/2020, Th dùng Facebook “Hoàng Mạnh” và số điện thoại 0762.402.258 đặt 01 điện thoại iPhone X, 64GB, bản Quốc tế, màu trắng, đã qua sử dụng của Cửa hàng phụ kiện điện thoại X giá 9.450.000đ qua anh Trần Nam The là nhân viên bán hàng. Sau đó, Th yêu cầu giao hàng bởi Công ty Cổ phần giao hàng Z về địa chỉ: số 15 Nh, phường Y, Tp H, tỉnh Quảng Ninh và thông báo cho T biết. Khoảng 08 giờ ngày 18/9/2020, T được anh Nguyễn Mạnh To phân công đi giao đơn hàng trên, T đã liên lạc với Th giao, nhận hàng để Th về tráo đổi linh kiện như đã bàn bạc từ trước. Th mang về cửa hàng sửa chữa điện thoại của mình, lấy chiếc iPhone X trên ra và thay bằng chiếc điện thoại VEGA màu trắng, đã cũ rồi đóng gói lại như ban đầu và chuyển lại cho T. T đã hướng dẫn Th thay đổi địa chỉ nhận hàng thành: Ka Long, Móng Cái. Đến khoảng 08 giờ 15 phút cùng ngày, T cầm gói hàng trên quay về Công ty, báo khách hàng thay đổi địa chỉ nhận hàng với anh To và chị Nguyễn Thị Hồng Nh - nhân viên điều phối, rồi bàn giao lại. Khi anh Ngô Quang Ti là nhân viên giao hàng của Công ty tại kho Móng Cái gọi điện thoại cho Th nhiều lần nhưng Th không nghe máy, hàng được hoàn về cho Cửa hàng phụ kiện điện thoại 969. Sau khi chiếm đoạt được chiếc iPhone X này, Th bán cho khách nam giới, không rõ lai lịch giá 6.000.000đ và chia cho T tổng cộng 1.500.000đ. Số tiền còn lại Th ăn tiêu hết. Ngày 26/9/2020, khi nhận hàng hoàn về không phải chiếc điện thoại đã gửi đi, anh The đã thông báo cho Công ty Cổ phẩn Giao hàng Z.

Vụ thứ hai: Ngày 28/9/2020, với thủ đoạn cũ Th tiếp tục đặt 01 điện thoại iPhone 11 Pro-Max, 64GB, màu vàng của Cửa hàng Y giá 19.600.000đ qua anh Vũ Tiến S là nhân viên. Sau đó, Th yêu cầu giao hàng qua Công ty Cổ phần giao hàng Z về địa chỉ: số 104 đường L, phường Y, Tp H, Quảng Ninh và thông báo cho T biết. Ngày 29/9/2020, T nhận phân công đi giao hàng và hẹn Th nhận tại ngõ 4 đường Lương Thế Vinh; sau khi nhận hàng, Th tiếp tục tráo bằng chiếc điện thoại Iphone nêu trên bằng điện thoại Samsung, màu tím đã cũ. Đồng thời T hướng dẫn Th thay đổi giờ nhận hàng để T cầm đơn hàng quay về bàn giao lại cho anh To và chị Nh. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, anh Đỗ Văn Kh, là nhân viên giao hàng của Công ty, giao đơn hàng này cho Th. Khi nhận hàng Th yêu cầu kiểm tra hàng và hoàn lại với lý do không đúng như hàng đặt đồng thời cho Kh 150.000đ rồi rời đi. Ngày 30/9/2020, khi nhận được hàng hoàn về, do không đúng với chiếc điện thoại đã gửi đi, anh S đã báo cho Công ty cổ phần giao hàng tiết kiện để xử lý. Đối với chiếc điện thoại trên, Th chưa bán được, nhưng đã cho T 4.000.000đ. Khi bị phát hiện tráo đổi hàng, T đã thừa nhận sự việc với anh To, chị Nh và anh Trịnh Tuấn Hu, là chuyên viên pháp chế của Công ty; còn Th tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại này cho Cơ quan cảnh sát điều tra.

Kết luận định giá tài sản số 228/KLĐGTS ngày 25/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Hạ Long kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro-Max, màu vàng, dung lượng 64GB, Imei 1 353889107400078, Imei 2 3538889107389032 giá trị tại thời điểm định giá là 22.941.500đ.

Kết luận định giá tài sản số 229/KLĐGTS ngày 25/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Hạ Long kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng, dung lượng 64 GB, số Imei 353041092791182 giá trị tại thời điểm định giá là 9.174.900đ.

Ngày 20/11/2020, Công ty cổ phần giao hàng Z đã bồi thường cho Cửa hàng phụ kiện điện thoại 969 số tiền 9.450.000đ và Cửa hàng King Store 19.600.000đ. Ngày 07/12/2020 các bị cáo đã liên đới bồi thường Công ty cổ phần giao hàng Z toàn bộ 29.050.000đ, Công ty và 2 Cửa hàng không có yêu cầu nào khác về trách nhiệm dân sự.

Cáo trạng số 84/CT-VKSHL ngày 05/3/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long truy tố các bị cáo Phạm Trọng Th và Nguyễn Quang T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu, việc bị truy tố và đưa ra xét xử là đúng người đúng tội, không oan, đã được thực hiện các quyền, nghĩa vụ và giải thích việc công bố bản án; xin được hưởng khoan hồng của pháp luật. Th khẳng định cả 2 lần tráo đổi điện thoại Th tự làm một mình không có ai biết. Toàn bộ 29.050.000đ khắc hậu quả T tự nguyện bồi thường 5.500.000đ còn lại là tiền của Th. Cả 2 bị cáo đều yêu cầu HĐXX tuyên trả cho Th chiếc điện thoại Iphone 11 Pro- Max. 150.000đ là tiền Th cho Kh để uống nước, bị cáo không ý kiến gì.

Người đại diện theo ủy quyền của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh Trịnh Tuấn Hu có lời khai thể hiện: Công ty có kho hàng tại tổ 3, khu 2, phường Y, Tp H tại đây Công ty hợp đồng với Nguyễn Quang T làm cộng tác viên giao hàng có nhiệm vụ giao hàng và nhận tiền từ người nhận hàng về trả lại cho Công ty để quyết toán cho người gửi. Ngày 17/9/2020 The - nhân viên Cửa hàng phụ kiện điện thoại X gửi 01 đơn hàng là 01 điện thoại Iphone X bản quốc tế màu trắng đến người nhận là Nguyễn Mạnh Ho và nhờ Công ty thu hộ 9.450.000đ. Ngày 26/9/2020 anh The nhận hàng hoàn về do không giao được thì không phải điện thoại Iphone X bản quốc tế màu trắng đã gửi đi mà là 01 điện thoại VEGA màu trắng đã hỏng. Ngày 28/9/2020 Sơn - nhân viên Cửa hàng Y gửi 01 đơn hàng là 01 điện thoại Iphone 11 Pro-Max màu vàng kèm phụ kiện đến người nhận là Phạm Hoàng Ma và nhờ Công ty thu hộ 19.600.000đ. Ngày 30/9/2020 Cửa hàng nhận hàng hoàn về do hàng không đúng tình trạng không phải điện thoại Iphone 11 Pro -Max màu vàng đã gửi đi mà là 01 điện thoại SAMSUNG màu tím đã hỏng. Cả 2 đơn đều do T vận chuyển. Sau khi xảy ra sự việc T không làm tại Công ty nữa, không có cách nào để liên lạc với T, Công ty đã phải bồi thường 29.050.000đ cho 2 cửa hàng. Công ty được biết ngoài T còn có Th cùng thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 07/12/2020 T và Th đã bồi thường cho Công ty toàn bộ số tiền 29.050.000đ.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại - Trần Nam The khai: ngày 17/9/2020 khách hàng dùng Facebook Nguyễn Mạnh Ho đặt hàng 01 Iphone X bản quốc tế màu trắng giá 9.450.000đ, sau khi nhận đơn hàng anh đã gửi hàng qua Công ty cổ phần giao hàng Z, ngày 26/9/2020 anh nhận lại đơn hàng do giao không được, mở hàng ra anh phát hiện bên trong là chiếc VEGA màu trắng bị hỏng. Cửa hàng đã nhận đủ số tiền bồi thường, không có yêu cầu khác về dân sự, xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự các bị cáo.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại - Vũ Tiến S quá trình điều tra có lời khai thể hiện: ngày 28/9/2020 Cửa hàng gói 1 gói hàng bên trong là điện thoại Iphone 11 Pro-Max giá 19.600.000đ gửi Công ty cổ phần giao hàng Z giao cho khách hàng Phạm Hoàng Ma, sau đó khách hàng phản ánh không đúng sản phẩm do khách đặt, ngày 30/9/2020 anh nhận lại đơn hàng, mở hàng ra anh phát hiện bên trong là chiếc điện thoại Samsung màu tím đã bị hỏng. Cửa hàng đã nhận đủ số tiền 19.600.000đ từ phía Công ty giao hàng Z, không có yêu cầu khác về dân sự, xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự các bị cáo.

Người làm chứng Nguyễn Mạnh To và Đỗ Văn Kh khai phù hợp với nhau thể hiện nội dung: ngày 01/10/2020 Đỗ Văn Kh - nhân viên kho Yết Kiêu giao hàng thông báo chiếc điện thoại Iphone 11 Pro max màu vàng trị giá 19.600.000đ của Cửa hàng Y đã hoàn lại với lý do sai sản phẩm, thời điểm Kh giao hàng khách phát hiện không phải điện thoại Iphone 11 Pro-Max màu vàng mà là chiếc Samsung màu tím bị hỏng không bật được nguồn. Cuối tháng 10/2020 kho Yết Kiêu nhận được thông tin nghi ngờ đơn hàng là 01 Iphone X bản quốc tế màu trắng trị giá 9.450.000đ của Cửa hàng phụ kiện điện thoại X do liên hệ nhiều lần với người nhận không được đã trả lại nơi gửi ban đầu. Qua kiểm tra biết T là nhân viên giao 2 đơn hàng trên, sau đó T khai nhận đã cùng một người khác đánh tráo hàng nhằm chiếm đoạt tiền của Công ty. Kh được Th đưa 150.000đ anh có gọi Th để trả lại nhưng lúc đó khách đã rời đi Kh không liên lạc lại được.

Người làm chứng Nguyễn Thị Hồng Nh khai: ngày 18/9/20202 đơn hàng là điện thoại Iphone X 64GB chuyển từ Cửa hàng phụ kiện điện thoại X được anh To phân công T giao hàng, đến 13 giờ 17 phút cùng ngày T mang đơn hàng quay về kho báo đổi thời gian, địa chỉ nhận hàng, chị thay đổi địa chỉ nhận hàng từ Tp H thành Tp M nhưng vẫn không liên lạc được, do nghi ngờ T tráo hàng, chị cùng anh To, chị Ye trao đổi với T, sau đó T đã thừa nhận hành vi tráo 02 đơn hàng như nội dung vụ án. Người làm chứng Ngô Quang Ti khai phù hợp với chị Nh: Ti là nhân viên giao hàng kho Móng Cái, chiều 19/9/2020 anh được điều phối giao đơn hàng nhưng cả 3 lần khách hàng đều báo bận không lấy hàng theo quy định anh đã trả đơn hàng về kho Yết Kiêu.

Người làm chứng Phạm Thị Hu có lời khai thể hiện: Tháng 11/2020 không thấy T đi làm, bà có hỏi thì T nói bị Công ty đình chỉ công tác do đã tráo đổi điện thoại cùng Th (cháu ruột của bà Hu), bà gọi điện thì Th nói sẽ chung tiền đưa T trả cho Công ty, khoảng 2 ngày sau chưa thấy thông tin từ Th, bà có gọi lại nhưng Th nói T làm thì T chịu, sau đó bà không liên lạc và gặp được Th nữa.

Người làm chứng Trần Thị Hồng Ha khai: ngày 30/10/2020 T đi làm về có nói với chị chính thức bị đình chỉ công việc do thông đồng với Th (anh họ của chị Hạnh) đặt mua hàng trên mạng để đánh tráo linh kiện, chị đã khuyên chồng liên hệ với anh Th nhận tội và khắc phục hậu quả; sau khi trao đổi anh Th nói T đứng ra nhận tội rồi ngày 01/11/2020 anh Th sẽ chuyển tiền cho chồng chị khắc phục hậu quả nhưng sau đó không liên lạc được với anh Th. Khoảng 5 ngày sau Công ty gọi chồng chị ra khai báo và bồi thường nhưng do khó khăn nên T không ra.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 58 và điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt Phạm Trọng Th từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; Xử phạt Nguyễn Quang T từ 9 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Trách nhiệm dân sự đã xử lý, không đề cập. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại bị cáo Th 01 điện thoại Iphone 11 Pro-Max màu vàng; tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại Vega màu trắng và 01 điện thoại Samsung màu tím là vật chứng của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo về việc dùng thủ đoạn gian dối khi giao, nhận hàng, đánh tráo điện thoại mới của bị hại bằng điện thoai đã cũ, bán lấy tiền chi tiêu cá nhân phù hợp với lời khai của đại diện bị hại về việc trực tiếp bán 02 chiếc điện thoại qua mạng xã hội cho Th nhưng hàng hoàn về không phải là sản phẩm đã xuất bán; phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về việc giao nhiệm vụ cho T và T đã thực hiện hành vi gian dối để lừa công ty; phù hợp lời khai của những người làm chứng và phù hợp với sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, bản ảnh điện thoại, biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và các kết luận định giá tài sản.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận: ngày 17 và 28/9/2020, tại kho Yết Kiêu của Công ty cổ phần giao hàng Z thuộc tổ 3 khu 2 phường Y, Tp H, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Trọng Th và Nguyễn Quang T có hành vi gian dối thông qua việc tráo đổi hàng hóa để chiếm đoạt 01 điện thoại iPhone X, 64GB bản Quốc tế, màu trắng, trị giá 9.174.900đ của Cửa hàng phụ kiện điện thoại X và 01 điện thoại iPhone 11 ProMax, 64GB màu vàng, trị giá 22.941.500đ của Cửa hàng Y. Tổng giá trị tài sản T và Th chiếm đoạt là 32.116.400đ (Ba mươi hai triệu, một trăm mười sáu nghìn, bốn trăm đồng).

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm..” [3] Tính chất mức độ, hành vi phạm tội: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội; gây hoang mang, lo lắng cho hoạt động của các doanh nghiệp; bằng thủ đoạn gian dối đánh tráo điện thoại di động có giá trị thành điện thoại đã hỏng, không còn giá trị để chiếm đoạt tiền của các cửa hàng điện thoại. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Trong vụ án này Th và T là đồng phạm cùng cố ý thực hiện một tội phạm, Th là người chủ mưu, khởi xướng cách thức đánh tráo điện thoại và chủ động trong vai trò xử lý tài sản lừa đảo, chủ động chia tiền sau khi bán điện thoại còn T là đồng phạm giúp sức tích cực bằng thủ đoạn gian dối để lừa Công ty vì vậy, Th phải chịu trách nhiệm cao hơn T.

Người đàn ông mua điện thoại của Th do không xác định được lai lịch, địa chỉ, HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Ti tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo đều phạm tội 02 lần trở lên, vì vậy phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, đây là những tình tiết xem xét giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về phần bồi thường dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận bồi thường và không yêu cầu gì khác, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng của vụ án: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone (Kiểu dáng Iphone 11 Pro Max) màu vàng, do các bị cáo đã bồi thường toàn bộ tiền cho chiếc điện thoại này đồng thời đề nghị tuyên trả lại cho bị cáo Th, nên HĐXX chấp nhận. 01 điện thoại di động nhãn hiệu VEGA màu trắng, bị trầy xước mặt sau, đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, màu tím là công cụ phạm tội nên tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: các bị cáo không có thu nhập ổn định, không áp dụng.

[7] Về án phí: Các bị cáo chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Phạm Trọng Th và Nguyễn Quang T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Xử phạt: Phạm Trọng Th 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt: Nguyễn Quang T 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Căn cứ khoản 4 Điều 123 Bộ luật tố tụng Hình sự: cấm bị cáo Phạm Trọng Th và Nguyễn Quang T đi khỏi nơi cư trú kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm đi chấp hành án phạt tù.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: tịch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu VEGA màu trắng, đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu tím. Trả lại bị cáo Phạm Trọng Th 01 (Một) điện thoại nhãn hiệu Iphone (Kiểu dáng Iphone 11 Pro Max) màu vàng. (Ti trạng như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 159/BB-THA ngày 16/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hạ Long).

Căn cứ Điều 331; Điều 333; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Phạm Trọng Th và Nguyễn Quang T mỗi bị cáo chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, báo quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2021/HS-ST ngày 04/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:124/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về