Bản án 124/2020/HNGĐ-ST ngày 07/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 124/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm C khai vụ án thụ lý số: 264/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2020/QĐST-DS ngày 20 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Phương C, sinh năm: 1990.

Đa chỉ: Khu vực BTB, phường BT, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Có mặt

Bị đơn: Anh Lưu Bá Q, sinh năm: 1981.

Đa chỉ: Khu vực BT B, phường BT, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Phương C trình bày: Năm 2011 chị Phạm Thị Phương C và anh Lưu Bá Q tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Long Mỹ, huyện Long Mỹ (nay là UBND phường Thuận An), hôn nhân do vợ chồng anh chị cùng tự nguyện.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Sau khi chung sống hạnh phúc được một thời gian dài thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng thường xuyên cự cãi, cuộc sống chung không còn hòa hợp, vợ chồng đã ly thân được 02 năm nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị C yêu cầu được ly hôn với anh Lưu Bá Q.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lưu Hoàng Vinh (giới tính: nam), sinh ngày 19/05/2011. Hiện nay cháu Vinh đang sống chung với gia đình anh Q. Sau khi ly hôn chị C đồng ý để anh Q tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình tiến hành tố tụng, từ khi Tòa án thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn Lưu Bá Q để tiến hành phiên họp, phiên hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do nên Tòa án không ghi được lời khai của bị đơn cũng như bị đơn không thể hiện ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, từ khi tòa án thụ lý vụ án đến nay Thẩm phán được phân C đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48, 198 Bộ luật tố tụng dân sự như: Xác định mối quan hệ tranh chấp, tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, gửi quyết định xét xử cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo thủ tục quy định về phiên toà sơ thẩm. Đối với các đương sự: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay đương sự đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70,71,72, 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Phạm Thị Phương C được ly hôn với anh Lưu Bá Q. Về con chung anh Q được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Lưu Hoàng Vinh; Về tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét; Về án phí nguyên đơn phải nộp theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn Lưu Bá Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn” theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ngày 18/02/2011 chị Phạm Thị Phương C và anh Lưu Bá Q có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã thị trấn Long Mỹ, huyện Long Mỹ (nay là UBND Phường Thuận An, thị xã Long Mỹ) nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, chị C và anh Q đã ly thân 02 năm nay. Xét thấy thời gian ly thân kéo dài nhưng vợ chồng anh chị không thể hàn gắn được; Tại phiên tòa hôm nay chị C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Q, từ đó chứng minh rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Phạm Thị Phương C.

[4] Về con chung: Chị C và anh Q có 01 con chung Lưu Hoàng Vinh (giới tính: nam), sinh ngày 19/05/2011. Hiện nay cháu Vinh đang sống chung với anh Q. Sau khi ly hôn chị C đồng ý để anh Q được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Tại bản tự khai cháu Lưu Hoàng Vinh cũng có nguyện vòng sống chung với cha. Ngoài ra, căn cứ vào biên bản xác minh ngày 08/5/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ thì từ khi vợ chồng chị C ly thân cho đến nay anh Q là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lưu Hoàng Vinh, anh Q đủ điều kiện để chăm sóc tốt cho cháu Vinh. Vì vậy, căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử thống nhất để anh Q được tiếp tục nuôi cháu Lưu Hoàng Vinh. Do anh Q vắng mặt nên Hội đồng xét xử dành quyền khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Q đối với chị C khi có yêu cầu.

[5] Về tài sản chung: Không có, nên không xem xét.

[6] Về nợ chung: Do đương sự khai không có, nên không xem xét.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn chị Phạm Thị Phương C phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 9; Điều 51; Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Phạm Thị Phương C được ly hôn với anh Lưu Bá Q.

[2] Về con chung: Anh Q được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Lưu Hoàng Vinh (giới tính: nam), sinh ngày 19/5/2011. Chị C được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Dành quyền khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng con chung là cháu Lưu Hoàng Vinh cho anh Q khi có yêu cầu.

[3] Về tài sản chung: Không có nên không xem xét.

[4] Về nợ chung: Do đương sự khai không có, nên không xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Phạm Thị Phương C phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp sang án phí theo lai thu số 0000663 phiếu lập ngày 19 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

[6] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 07/7/2020). Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi bị đơn cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2020/HNGĐ-ST ngày 07/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:124/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về