Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T H, TỈNH T H

BẢN ÁN 124/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 11 năm 2019 tại hội trường, Toà án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 619/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Dương Thị H, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Xóm G, xã C, thành phố TH, tỉnh TH. (Có mặt tại phiên tòa)

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Xóm G, xã C, thành phố TH, tỉnh TH. (Vắng mặt lần thứ 2 – không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên toà nguyên đơn là chị Dương Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn P kết hôn năm 2008, trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, thành phố TH, tỉnh TH. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không quan tâm đến nhau. Căng thẳng nhất là từ tháng 10/2018 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai dẫn đến vợ chồng ly thân. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, xin được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Nguyễn Văn B, sinh ngày 25/3/2009. Nếu ly hôn, tôi có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về công nợ chung: Chị H xác định vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, bị đơn là anh Nguyễn Văn P trình bày: Năm 2008 anh kết hôn với chị Dương Thị H có tìm hiểu trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng không được hạnh phúc xuất phát từ mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu dẫn đến bất đồng quan điểm sống. Nay chị H xin ly hôn, anh xác định vẫn còn yêu thương vợ nên không nhất trí ly hôn.

Về con chung: Có một con chung Nguyễn Văn B, sinh ngày 25/3/2009. Nếu phải ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về công nợ chung: Anh P xác định vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải tuy nhiên các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án, do vậy vụ án được đưa ra xét xử công khai ngày hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; Chị Dương Thị H và anh Nguyễn Văn P đều có nơi cư trú tại thành phố TH, nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố TH theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa vắng mặt anh Nguyễn Văn P, mặc dù được triệu tập hợp lệ. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị H và anh Nguyễn Văn P kết hôn năm 2008 trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, thành phố TH, tỉnh TH nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp. Lý do chị H xin ly hôn là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không tìm được tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ tháng 10/2018 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Anh P không nhất trí lý hôn nhưng anh cũng xác định cuộc sống chung của hai vợ chồng không hạnh phúc, anh cố gắng hòa giải song chị H không hợp tác nên anh cũng không quan tâm đến chị H nữa. Hội đồng xét xử xét thấy mục đích hôn nhân giữa chị H và anh P không đạt được, nếu duy trì quan hệ hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên. Do đó, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị H là phù hợp với thực tế quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị H và anh P có một con chung Nguyễn Văn B sinh ngày 25/3/2009. Nếu ly hôn cả hai đều có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Nếu ly hôn chị H và anh P đều có nguyện vọng nuôi con. Xét thấy nguyện vọng của chị H và anh P đều phù hợp đạo đức xã hội và quy định của pháp luật. Xét về điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của hai bên như nhau. Anh P có nguyện vọng nuôi, nhưng anh không đến phiên tòa để thể hiện nguyện vọng của mình. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị H được trực tiếp nuôi con là phù hợp.

Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Dương Thị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung: Chị H và anh P tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về công nợ chung: Hai bên xác định không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Chị Dương Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm. Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Dương Thị H. Chị Dương Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn P.

2. Về con chung: Giao cho chị Dương Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Văn B, sinh ngày 25/3/2009 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Anh Nguyễn Văn P được quyền đi lại thăm nom con chung mà không ai có quyền cản trở.

* Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vì chị H không yêu cầu.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Án phí: Chị Dương Thị H phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nộp Ngân sách Nhà nước, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002015 ngày 25/7/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH.

5. Quyền kháng cáo: Chị Dương Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn P có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 124/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:124/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về