TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 124/2017/HS-PT NGÀY 20/09/2017 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2017/HSPT ngày 21/8/2017 đối với bị cáo Nguyễn Viết Huy Q, do bản án hình sự sơ thẩm số 139/2017/HSST ngày 11/7/2017 của Toà án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế có bị cáo kháng cáo:
- Bị cáo: Nguyễn Viết Huy Q; tên gọi khác: Q T; giới tính: nam; sinh ngày: 13/8/1978; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; con ông: Nguyễn Viết H và bà Thái Thị X; bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Lê Thị Kim L; con: 01 con sinh năm 2006;
Tiền sự: không; Tiền án: có 01 tiền án, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” ngày 26/12/2014.
Quá trình nhân thân: Lúc nhỏ ở với bố mẹ, học văn hóa đến lớp 8 thì nghỉ học ở nhà sau đó làm nghề thợ điện. Năm 1997 tham gia nghĩa vụ quân sự, đến năm 1999 xuất ngũ trở về địa phương. Ngày 10/8/2001 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Ngày 04/02/2002 bị Công an phường Phú Hội, thành phố Huế xử phạt hành chính 50.000 đồng về hành vi đánh nhau. Ngày 03/4/2003 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” sau đó được đình chỉ điều tra. Ngày 16/01/2007 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng vì có hành vi “Đánh người gây thương tích”. Ngày 15/7/2010 bị Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra Quyết định xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 29/01/2011 bị Chủ tịch Ủy ban nhân thành phố Huế Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 26/12/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/3/2017 cho đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế và bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Huế thì nội dung vụ án được xác định như sau:
Sáng ngày 14/3/2017 Nguyễn Viết Huy Q nhờ cháu gọi mình bằng bác ruột là cháu Nguyễn Viết Hoàng M mượn giúp xe mô tô để cùng Q lên đường T, phường P, thành phố H có việc. Khi chở M đến kiệt 131 đường T thì Q gặp bạn là Đoàn R (sinh năm 1991, trú tại: đường T, phường P, thành phố H), nên Q bảo M đứng đợi còn Q mượn xe mô tô và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus của M để đi có việc với R. M đồng ý giao xe và điện thoại của mình cho Q sử dụng. Do Q đi quá lâu nên M bỏ về nhà trước. Một lúc sau, Q về lại chỗ M đợi nhưng không thấy M, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của cháu M đem đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân. Q nhờ R đưa xe về trả lại cho M, còn Q đem điện thoại của M đến dịch vụ cầm đồ “ĐS” địa chỉ: đường T, phường P, thành phố H cầm cố cho anh Nguyễn Văn T lấy 2.000.000đồng. Sau đó vài ngày, hai lần Q quay lại gặp anh T lấy thêm
2.000.000đồng. Số tiền cầm cố được Q sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Sau khi biết được Q lấy điện thoại của mình đem đi cầm cố nên cháu M và bố là ông Nguyễn Viết Q Vũ đã làm đơn trình báo gửi Công an thành phố Huế yêu cầu xử lý.
Ngày 23/3/2017 Cơ quan điều tra Công an thành phố H đã thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus 16GB, màu xám, có số Imel: 354391061928995 do anh Nguyễn Văn Tâm giao nộp.
Ngày 23/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: Giá trị 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus nói trên tại thời điểm bị chiếm đoạt là: 7.500.000đồng.
Ngày 28/4/2017 Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại 01 điện thoại di động cho cháu M và đã tự nguyện bồi thường cho cháu M số tiền 500.000 đồng để sửa chữa điện thoại. Cháu M đã nhận lại tài sản và nhận tiền nên không yêu cầu gì thêm. Cháu M có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Q.
Anh Nguyễn Văn T đã được mẹ của Q là bà Thái Thị X tự nguyện trả giúp cho anh T số tiền 4.000.000 đồng. Anh T đã nhận tiền và không có yêu cầu gì thêm.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 139/2017/HSST ngày 11/7/2017 của Toà án nhân dân thành phố H đã áp dụng khoản 1 Điều 140; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Viết Huy Q, 09 (chín) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/3/2017.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn giải quyết về án phí hình sự và tuyên quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 25/7/2017, bị cáo Nguyễn Viết Huy Q có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế có quan điểm: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết Huy Q và đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Có cơ sở kết luận: Vào khoảng 10 giờ 00 ngày 14/3/2017 tại đường T, phường P, thành phố H, Nguyễn Viết Huy Q mượn của cháu Nguyễn Viết Hoàng M 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus để sử dụng làm phương tiện liên lạc rồi sau đó đem đi cầm cố lấy số tiền 4.000.000đồng tiêu xài cá nhân. Theo kết luận của Hội đồng định giá chiếc điện thoại có giá trị 7.500.000đồng.
Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân thành phố Huế kết tội bị cáo Nguyễn Viết Huy Q phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 140 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết Huy Q, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lợi dụng lòng tin của người khác để chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, bị cáo là người có nhân thân xấu và có 01 tiền án nên đã phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, do đó cần xét xử nghiêm để giáo dục và phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù là đã xem xét tất cả các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không có bổ sung tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do vậy, không thể chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo mà cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm như lời đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Q phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự;Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết Huy Q và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng khoản 1 Điều 140; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Viết Huy Q 09 (chín) tháng tù về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.” Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/3/2017. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Nguyễn Viết Huy Q phải chịu 200.000đồng. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 124/2017/HS-PT ngày 20/09/2017 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 124/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về