Bản án 123/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 123/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 807/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “ly hôn, về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2021/QĐXX-ST ngày 02 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Dương Thành P, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp T, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang (Có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn P – Luật sư của Văn phòng luật sư nguyễn Văn p thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang (Có mặt).

2. Bị đơn: Chị Lê Thị Kim T, sinh năm 1994; địa chỉ: ấp T, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn anh Dương Thành P trình bày: Anh và chị Lê Thị Kim T tự tìm hiểu, tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Vợ chồng sống hạnh phúc đến cách nay khoảng 07 tháng thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ không quan tâm gia đình nên vợ chồng thường hay cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn và không còn chung sống từ đó đến nay. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh yêu cầu ly hôn với chị Lê Thị Kim T. Về quan hệ con chung: Trong thời gian chung sống, vợ chồng có 02 con chung tên Dương Thành Tr, sinh ngày 23/6/2016 (hiện do anh P chăm sóc, nuôi dưỡng) và Dương Thành H, sinh ngày 04/8/2018 (hiện do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng). Khi ly hôn, anh P yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Tr, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung; anh P đồng ý để chị T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên H, anh không cấp dưỡng nuôi con chung. Về quan hệ tài sản chung: Không có. Về quan hệ nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, anh P giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn chị Lê Thị Kim T được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chị T vẫn vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không hòa giải được.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Về hôn nhân: Do bị đơn bà T không quan tâm gia đình nên giữa ông P với bà T đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng và không còn chung sống khoảng 07 tháng cho đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không hàn gắn được tình cảm vợ chồng với nhau nên ông P yêu cầu ly hôn với bà T. Trong thời gian chung sống ông P, bà T có 02 con chung tên Dương Thành Tr, sinh ngày 23/6/2016 (hiện do ông P chăm sóc, nuôi dưỡng) và Dương Thành H, sinh ngày 04/8/2018 (hiện do bà T chăm sóc, nuôi dưỡng). Khi ly hôn, ông P yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Tr, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung; ông P đồng ý để bà T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên H, ông P không cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, từ khi ông P, bà T không còn sống chung cho đến nay, thì cháu Tr do ông P nuôi dưỡng; cháu H do bà T nuôi dưỡng nên tình cảm của các cháu sẽ gắn liền với người trực tiếp nuôi dưỡng. Ông P, bà T không có tài sản chung, nợ chung. Như đã phân tích nên tôi đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P đối với bà Nữ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết: Về hôn nhân: Ông Dương Thành P và bà Lê Thị Kim T tự tìm hiểu và tiến tới hôn nhân năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện Chợ Mới ngày 23/11/2015 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cách nay 07 tháng thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bà T không quan tâm gia đình, bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cự cải và ly thân đến nay. Nay, nhận thấy tình cảm không còn ông P yêu cầu ly hôn với bà T. Xét thấy, từ khi ông P gửi đơn yêu cầu ly hôn, cả hai không tạo điều kiện hàn gắn, bà T không có ý kiến phản hồi và vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, ông P xác định không còn tình cảm với bà T, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa bà T với ông P đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, nếu tiếp tục sống chung sẽ không hạnh phúc, nên ông P yêu cầu ly hôn với bà T là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: Có 02 con chung tên Dương Thành Tr, sinh ngày 23/6/2016 và Dương Thành H, sinh ngày 04/8/2018. Hiện, cháu Tr đang sống với ông P, cháu H đang sống với bà T. Khi ly hôn, ông P yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Tr, đồng ý để cháu H cho bà T chăm sóc, cả hai không phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ khi ly thân cho đến nay, cháu Tr sống với ông P, cháu H sống với bà T vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Để đảm bảo cuộc sống cho cháu Tr, cháu H, nghĩ nên tiếp tục giao cháu Tr cho ông P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, cháu H cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Do bà T, ông P không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến. Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đề cập đến.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị:

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Dương Thành P đối với bà Lê Thị Kim T.

- Ông Dương Thành P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Dương Thành Tr, sinh ngày 23/6/2016, bà Lê Thị Kim T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Dương Thành H, sinh ngày 04/8/2018. Cả hai không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Anh Dương Thành P yêu cầu ly hôn với chị Lê Thị Kim T, chị T có nơi cư trú ấp T, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Bị đơn chị Lê Thị Kim T được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T là có căn cứ.

[3] Anh Dương Thành P yêu cầu ly hôn với chị Lê Thị Kim T. Anh P và chị T có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa hai người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo anh P trình bày, vợ chồng sống hạnh phúc đến cách nay khoảng 07 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ không quan tâm gia đình nên mâu thuẫn ngày càng nhiều hơn và không còn chung sống đến nay. Nhận thấy, tình cảm không còn, anh yêu cầu ly hôn với chị T. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc anh P yêu cầu ly hôn và triệu tập chị T tham gia các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng chị T vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của anh P. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa anh P và chị T đã diễn ra trong thời gian dài, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, chị T không quan tâm đến gia đình nên thường cãi nhau, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày mâu thuẫn nhiều hơn và không còn chung sống từ cách nay khoảng 07 tháng cho đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh P là phù hợp theo quy định pháp luật.

[4] Về quan hệ con chung: Trong thời gian chung sống, anh P xác định vợ chồng có 02 con chung tên Dương Thành Tr, sinh ngày 23/6/2016 (hiện do anh P chăm sóc, nuôi dưỡng) và Dương Thành H, sinh ngày 04/8/2018 (hiện do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng). Khi ly hôn, anh P yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Tr; đồng ý để chị T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên H. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, cháu Tr do anh P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; cháu H do chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên tâm tư tình cảm của các cháu gắn liền với người nuôi dưỡng và trong quá trình giải quyết chị T cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu này của anh P. Do đó, để anh P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Tr, chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H là phù hợp với pháp luật.

[5] Đối với cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh P, chị T không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về quan hệ tài sản chung: Anh P trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Về quan hệ nợ chung: Anh P trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[8] Từ những phân tích nêu trên, có cơ sở chấp nhận lời đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

[9] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: - Các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Các Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Dương Thành P đối với chị Lê Thị Kim T.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Dương Thành P được ly hôn với chị Lê Thị Kim T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 118, quyển số 01, ngày 23 tháng 11 năm 2015 do Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp cho anh Dương Thành P và chị Lê Thị Kim T không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Anh Dương Thành P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Dương Thành Tr, sinh ngày 23/6/2016 (hiện do anh P chăm sóc, nuôi dưỡng); chị Lê Thị Kim T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Dương Thành H, sinh ngày 04/8/2018 (hiện do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng). Anh Dương Thành P và chị Lê Thị Kim T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Dương Thành P, chị Lê Thị Kim T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở chị Lê Thị Kim T, anh Dương Thành P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: Không có.

- Về quan hệ nợ chung: Không có. Ghi nhận việc anh Dương Thành P xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì anh Dương Thành P và chị Lê Thị Kim T phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, anh Dương Thành P phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0013731 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 26/10/2020. Anh P đã nộp đủ án phí.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:123/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về