Bản án 123/2020/HS-ST ngày 18/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 123/2020/HS-ST NGÀY 18/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 3 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Thị Ánh T, sinh năm 1973. Tại Bình Thuận. Nơi cư trú: Khu phố H, thị trấn C, huyện B, tỉnh B. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: không biết chữ. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nữ. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Huỳnh Thái C, sinh năm 1940 (đã chết) và bà Trần Thị A sinh năm 1944 (đã chết). Gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con thứ 3. Bị cáo có chồng tên Nguyễn Q (đã ly hôn) và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1993 (đã chết) và nhỏ nhất sinh năm 2001. Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 07/6/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 13/01/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 31/3/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị bắt quả tang ngày 03/11/2019, chuyển tạm giam theo theo lệnh số 804 ngày 08/11/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa.

Bị cáo có mặt.

- Bị hại: Chị Lê An T, sinh năm 1973.

Địa chỉ: 05 đường số 01, Khu tái định cư L, tổ 7, khu phố T, phường L, quận 9, Thành phố H. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 03/11/2019, Huỳnh Thị Ánh Tt điều khiển xe mô tô hiệu Honda Airblade, biển số 60B1-314.70 đi đến Siêu thị Big C thuộc khu phố 1, phường L, thành phố B để trộm cắp tài sản. Tuyết đi lòng vòng trong Siêu thị tìm kiếm thì phát hiện chị Lê An T, ngụ tại số 5, đường số 1, khu tái định cư L, tổ 7, khu phố T, phường L, Quận 9, thành phố H đang mua thịt gà tại khu vực bán hàng thực phẩm đông lạnh và bên cạnh có để 01 chiếc túi xách trên xe đẩy, bên trong túi xách có 01 chiếc ví da hiệu Mont Blanc, trong ví có 4.100.000đ (Bốn triệu một trăm ngàn đồng) và 01 thẻ căn cước công dân của chị T nên Tuyết đi đến vị trí chiếc xe đẩy và thò tay phải vào trong túi xách lấy trộm chiếc ví của chị T. Khi Tt đang cầm chiếc ví trên tay thì chị T phát hiện nên đã giữ T lại và truy hô để lực lượng bảo vệ Siêu thị đến hỗ trợ bắt giữ Tuyết giao cho Công an phường L lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang. Sau đó, Công an phường L đã giao Tuyết cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa để điều tra, xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- 01 chiếc ví da hiệu Mont Blanc bên trong có 4.100.000đ (Bốn triệu một trăm ngàn đồng) và 01 thẻ căn cước công dân của chị Lê An Trâm, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi và trả lại cho chị Trâm.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade, biển số 60B1-314.70 Huỳnh Thị Ánh T mượn của bà Phan Thị Th, ngụ tại tổ 14A, khu phố 2, phường B, thành phố B. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi và trả lại cho bà Th do bà Th không biết việc Tuyết sử dụng xe mô tô trên vào việc phạm tội.

Tại bản kết luận định giá số 621/TCKH-HĐĐG ngày 13/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: “01 chiếc ví hiệu Mont Blanc trị giá 385.000đ (Ba trăm tám mươi lăm ngàn đồng)”.

Về dân sự: chị Lê An Tr đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại cáo trạng số: 111/CT/VKS-HS ngày 14 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố Huỳnh Thị Ánh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong phần bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án, tội danh và áp dụng điều luật:

Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận: Ngày 03/11/2019, Huỳnh Thị Ánh T đã có hành vi trộm cắp của chị Lê An Tr 01 chiếc ví hiệu Mont Blanc trị giá 385.000đ (Ba trăm tám mươi lăm ngàn đồng) và số tiền 4.100.000đ (Bốn triệu một trăm ngàn đồng) đựng trong ví thì bị bắt giữ để điều tra, xử lý.

Lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa là thống nhất, phù hợp nhau và phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự, gây bất bình cho quần chúng nhân dân tại địa phương. Bị cáo đã 03 lần bị Tòa án xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học cho mình mà bị cáo lại tiếp tục hiện hành vi phạm tội chứng tỏ bò caùo là người coi thường pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về bồi thường dân sự: Chị Lê An Tr đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 chiếc ví da hiệu Mont Blanc bên trong có 4.100.000đ (Bốn triệu một trăm ngàn đồng) và 01 thẻ căn cước công dân của chị Lê An Tr, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi và trả lại cho chị Tr.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade, biển số 60B1-314.70 Huỳnh Thị Ánh T mượn của bà Phan Thị Th, ngụ tại tổ 14A, khu phố 2, phường B, thành phố B. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu hồi và trả lại cho bà Th là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Qúa trình điều tra, Huỳnh Thị Ánh T còn khai ngày 20/10/2019 đã trộm cắp 01 chiếc giỏ xách bên trong có 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) của 01 người phụ nữ không rõ họ tên, địa chỉ đang mua hàng tại Siêu thị Big C. Hiện chưa tìm được người bị hại nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[9] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa, xét thấy tương đối phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị Ánh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Huỳnh Thị Ánh T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2019.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2020/HS-ST ngày 18/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:123/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về