Bản án 123/2019/HSST ngày 19/09/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 123/2019/HSST NGÀY 19/09/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Hôm nay ngày 19 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 111/2019/HSST ngày 19 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Văn H (tên gọi khác: không); sinh ngày 08 tháng 6 năm 1990 tại thị xã T, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Xóm 6, xã N, Thị xã T, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Châu T, sinh năm 1966; con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; Vợ: Nguyễn Thị Huyền Tr, sinh năm 1994, con: 03 đứa, đứa lớn sinh năm 2015, đứa nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/5/2019 đến ngày 21/5/2019. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Chị Lữ Thị H1, sinh năm 1990 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

2. Chị Vi Thị N, sinh năm 1989 (Vắng mặt)

Trú tại: Bản N, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

3. Anh Bùi Văn C, sinh năm 1986

Trú tại: Khối 7, phường L, Thành Phố V, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)

4. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1977

Trú tại: Xóm 19, xã N, Thành phố V, Nghệ An. (Vắng mặt)

5. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1962

Trú tại: Khối 1, Thị trấn D, huyện D, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào khoảng 17 giờ 45 phút ngày 18/5/2019, Bùi Văn C, sinh năm 1986, trú tại: Khối 7, Phường L, Thành Phố V, tỉnh Nghệ An và Nguyễn Văn T, sinh năm 1977, trú tại: xóm 19, xã N, Thành Phố V, tỉnh Nghệ An đi đến quán “CL” tại xóm 6, xã DT, huyện D, tỉnh Nghệ An do Bùi Văn H làm chủ quán để mua dâm. Tại quán của H lúc này có hai nhân viên nữ là Vi Thị N và Lữ Thị H1 phục vụ quán ăn uống và bán dâm nếu khi khách có nhu cầu. Khi vào trong quán “ CL”, C và T hỏi H “ có con em nào không?” thì H trả lời “có”, C hỏi tiếp “Giá bao nhiêu”; H trả lời giá 200.000 đồng/01 lượt/1 người mua dâm. C và T đồng ý, mỗi người lấy ra 200.000 đồng, tổng là 400.000 đồng đưa cho H để trả tiền mua dâm. Bùi Văn H nhận tiền xong, sau đó nói Vi Thị N vào phòng thứ nhất tính từ ngoài vào để bán dâm cho Bùi Văn C, còn Lữ Thị H1 vào phòng thứ 3 bán dâm cho Nguyễn Văn T. Sau mỗi lần bán dâm xong, H sẽ trả cho N và H1 mỗi người số tiền là 150.000 đồng, còn H được hưởng 50.000 đồng/01 người. Đến 18 giờ cùng ngày, khi N và H1 đang bán dâm cho C và T thì bị Tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Nghệ An kiếm tra, phát hiện và bắt quả tang thu giữ tại phòng số 01 và số 03 mỗi phòng một chiếc bao cao su đã qua sử dụng và 400.000 đồng tiền mua dâm do H tự nguyện giao nộp. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải Bùi Văn H và các đối tượng có liên quan về trụ sở để tiếp tục điều tra làm rõ.

Bản cáo trạng số 121/CT-VKSDC ngày 19/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố bị cáo Bùi Văn H về tội “chứa mại dâm” quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Văn H từ 18 (mười tám) đến 24 (hai tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 (ba sáu) đến 48 (bốn mươi tám) tháng.

Hình phạt bổ sung: phạt tiền bị cáo từ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) đến 15.000.000 đồng ( mười lăm triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

Về vật chứng: Số tiền mua dâm 400.000đ là khoản tiền thu lợi bất chính nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận, nhất trí với bản luận tội của Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Vào lúc 18 giờ 00 phút ngày 18/5/2019 tại quán “CL” thuộc xóm 06, xã DT, huyện D do bị cáo quản lý. Bị cáo Bùi Văn H đã có hành vi cho Bùi Văn C và Vi Thị N; Nguyễn Văn T và Lữ Thị H1 thực hiện hành vi mua bán dâm trong cùng một khoảng thời gian nhằm thu lợi bất chính thì bị Tổ công tác thuộc phòng hình sự Công an tỉnh Nghệ An phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích phạm tội vì vụ lợi. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, và các chứng cứ, tài liệu thu thập có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 327 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Xét vụ án thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, trật tự trị an xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Vì vậy cần phải lên một mức án nghiêm tương xứng với mức độ phạm tội để đảm bảo tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi của mình. Bố đẻ của bị cáo được tặng thưởng huân chương chiến sĩ vẻ vang, bị cáo có công giúp Công an xã N trong việc phát hiện điều tra, tố giác tội phạm được Ủy ban nhân dân xã N xác nhận, đề nghị. Vì vậy cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng ổn định, ngoài lần phạm tội này bị cáo H luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú vì vậy nghĩ chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo và giao cho chính quyền đia phương giám sát giáo dục là đủ nghiêm, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.

[5] Hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 điều 327 BLHS quy định:

Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng”, do dó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có thu nhập nên cần áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền bị cáo 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

Đi với Bùi Văn C, Vi Thị N, Nguyễn Văn T và Lữ Thị H1 là những người mua dâm và bán dâm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D đã ra quyết định xử phạt hành chính là đúng theo quy định của pháp luật.

Đi với bà Nguyễn Thị L là người đứng tên đăng ký kinh doanh quán “CL”. Tuy nhiên bà L đã giao quán cho Bùi Văn H và chị Nguyễn Thị Huyền Tr quản lý. Khi H thực hiện việc mua bán dâm thì bà L và chị Tr không có mặt tại quán, không biết nên không liên quan trong vụ án.

[6] Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ là khoản tiền thu lợi bất chính; tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng.

[7] Về án phí hình sự: Căn cứ vào điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Bùi Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm .

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Bùi Văn H 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Về tội “Chứa mại dâm”.

Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo: 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, Thị xã T, tỉnh Nghệ An để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người đó. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.

- Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu hủy 02 bao cao su đã qua sử dụng. Vật chứng vụ án hiện đang được bảo quản tại Chi cục thi hành án huyện D theo phiếu nhập kho số NK00110 ngày 19/8/2019; Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000 (Bốn trăm ngàn đồng) đồng, hiện đang được nộp tại Kho bạc nhà nước D theo phiếu nhập TK số 9911 ngày 26/7/2019.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Bùi Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2019/HSST ngày 19/09/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:123/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về