Bản án 123/2018/HS-PT ngày 05/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 123/2018/HS-PT NGÀY 05/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05/4/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2018/HSPT ngày 26/02/2018 đối với bị cáo Lê Anh T về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2018/HS-ST ngày 22/01/2018 của Toà án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

1. Bị cáo có kháng cáo: LÊ ANH T, sinh ngày 07 tháng 05 năm 1992, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thị trấn KN, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch : Việt Nam; con ông Lê Tấn T1, sinh năm 1969 và bà Phạm Thị T2, sinh năm 1970; bị cáo có vợ là Lương Thị H, sinh năm 1993 và 01 con tên là Lê Thị Mỹ H1, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2017, có mặt.

2. Người bị hại: Ông Đặng Hữu N, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Hiếu T3, sinh năm 1973. Cùng trú tại: Tổ dân phố 5, thị trấn KN, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Chị Lương Thị H, sinh năm 1993

3.2. Ông Lê Tấn T1, sinh năm 1969.

Cùng trú tại: Thị trấn KN, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19h00’ ngày 21/7/2017, Lê Anh T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47L5-9994 đến trung tâm thị trấn KN, mục đích tìm kiếm nhà nào sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi, T mang theo 01 cái kéo dài khoảng 15cm, một túi nilonmàu vàng, một đôi găng tay bằng vải, khẩu trang để tránh bị phát hiện. Khi đến chợ huyện KN thấy trước cổng chợ có ngôi nhà đang xây, T đưa xe mô tô cất giấu ở nhà đối diện cổng sau chợ rồi đi bộ vào trong ngôi nhà đang xây để tìm kiếm tài sản để trộm cắp nhưng không thấy tài sản nào có giá trị.

Đến khoảng 21h00’ cùng ngày, T đi vào trong chợ thấy tiệm vàng KNN, sau đó T đi đến bên hông chợ và leo lên mái nhà, thấy lỗ thông gió, không có chechắn liền chui vào bên trong, thấy trần chợ làm bằng tôn, T men theo máng nước đến chỗ trần của tiệm vằng KNN. T dùng kéo mang theo cắt hai lỗ nhỏ để quan sát tiệm vàng, thấy tủ trong tiệm có nhiều nhẫn, bông tai và các đồ trang sức khác bằng vàng có giá trị, T dùng kéo cắt tiếp một lỗ lớn giữa trần tiệm vàng rồi đột nhập vào bên trong, T dùng kéo cắt dây điện của camera lấy bỏ lên trần, sau đó mở tủ lấy trộm các tài sản gồm: 46 cái nhẫn, 779 cái bông tai, 31 cái lắc tay, 50sợi dây truyền và 02 cái vòng đeo cổ bằng vàng, bạc và 05 cái vỏ bọc nanh động vật bằng vàng, 10 cái nanh sừng động vật bọc bạc bỏ vào túi nilon màu vàng, 10bình hoa bằng gỗ để trên tủ đứng bỏ vào áo khoác đang mặc cuộn lại. Sau khi lấy được tài sản, Tài thoát ra theo lối cũ, lấy xe mô tô đưa tài sản trộm cắp về nhà sau đó chia thành hai phần, một phần cất giấu trong phòng ngủ, phần còn lại cất giấu trên nóc tủ quần áo của gia đình. Ngày 27/7/2017, T mang 02 cái bông tai, 01 sợi dây truyền màu vàng có đính đá màu đỏ tặng cho vợ là chị Lương Thị H, T lấy 03 vòng đeo tay kim loại màu vàng đi tiêu thụ nhưng không được nên mang về nhưng làm rơi ở nhà nên chị H nhặt được. Khoảng 07h00’ ngày 30/7/2017, chị H mang 03 vòng đeo tay đến tiệm vàng KNN để bán thì hành vi của Lê Anh T bị phát hiện và bắt giữ.

Theo kết luận giám định của Công ty cổ phần vàng, bạc, đá quý PN – PNJ, kết luận toàn bộ số vòng, nhẫn, dây truyền kim loại trên là kim loại vàng, bạc.

Tại kết luận giám định tài sản số: 57/KL-HĐĐGTS ngày 29/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện KN kết luận: Tài sản gồm: 46 cái nhẫn, 779 cái bông tai, 31 cái lắc tay, 50 sợi dây truyền và 02 cái vòng đeo cổ bằng vàng, bạc tổng trị giá 114.689.550 đồng. Đối với 05 cái vỏ bọc nanh động vật bằng vàng, 10 cái nanh sừng động vật bọc bạc không có giá trị, 10 bình hoa bằng gỗ không xác định được giá trị.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 02/2018/HS-ST ngày 22/01/2018 của Toà án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk quyết định:

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999.

Tuyên bố các bị cáo Lê Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Anh T 03 (Ba) năm 06 (Sáu)  tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 30/7/2017.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 25/01/2018, bị cáo Lê Anh T làm có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Anh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đúng như bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức hình phạt 03 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, ĐIều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Bị cáo không tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Anh T đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Khoảng 21h00’ ngày 21/7/2017 bị cáo Lê Anh T đã thực hiện hành vi lén lút,  đột  nhập  vào  tiệm  vàng  KNN  chiếm  đoạt  tài  sản  với  tổng  giá  trị  là114.689.550 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Anh T về tội“Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Lê Anh T 03 (ba) năm 06 (Sáu) tháng tù là là thỏa đáng, tương xứng với tính chất mức độ hành vi của các bị cáo. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người bị hại mà còn làm mất trật tự an toàn, trị an tại địa phương. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cũng không cung cấp đượctình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt là phù phù hợp.

[2] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn

kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

[1] Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê AnhT – Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Lê Anh T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắptài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/7/2017.

[2] Về án phí: Bị cáo Lê Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 123/2018/HS-PT ngày 05/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:123/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về