Bản án 1226/2020/HNGĐ-ST ngày 02/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1226/2020/HNGĐ-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 758/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 524/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1977 Thường trú: 113/59/7 đường A, khu phố B, phường Linh X, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí M.

Địa chỉ: Số 217/14B đường A, khu phố B, phường Linh X, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Đỗ Xuân T, sinh năm 1971 Thường trú: 113/59/7 đường A, khu phố B, phường Linh X, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí M.

Địa chỉ: Số 217/14B đường A, khu phố B, phường Linh X, quận Thủ Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà và Ông Đỗ Xuân T tự nguyện kết hôn vào năm 1996, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã Văn Cẩm, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Sau khi lập gia đình ông bà sống tự lập. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, vợ chồng không có sự chia sẻ, từ đó cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc. Ông bà đã ly thân từ cuối năm 2020 cho đến nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà xin được ly hôn với ông T.

Đỗ Trung T, sinh ngày 17/12/2003. Sau khi ly hôn bà yêu cầu nuôi người con chung tên Đỗ Trung T và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng.

Riêng người con chung tên Đỗ Trí H, sinh ngày 17/7/1997 đã trưởng thành Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai và tại các buổi hòa giải Ông Đỗ Xuân T trình bày: Ông xác nhận thời gian kết hôn đúng như bà Ttrình bày. Theo ông, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2016 nguyên nhân là do kinh tế khó khăn, bà Tkhông chung thuỷ, từ đó cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc. Ông bà đã ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Tuy nhiên, ông xác định tình cảm vẫn còn, ông không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Có 02 người con chung tên Đỗ Trí H, sinh ngày 17/7/1997 và Đỗ Trung T, sinh ngày 17/12/2003. Sau khi ly hôn ông đồng ý giao con cho bà T trực tiếp nuôi con, ông sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng.

Riêng người con chung tên Đỗ Trí H, sinh ngày 17/7/1997 đã trưởng thành Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: Không có. Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, yêu cầu nuôi con chưa thành niên và tự nguyện không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con. Bị đơn Ông Đỗ Xuân T vắng mặt tại phiên Toà không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà nhưng vắng mặt.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp ly hôn” nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn cư trú tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về nội dung: Bà Nguyễn Thị T và Ông Đỗ Xuân T tự nguyện kết hôn và chung sống với nhau theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 24/9/1996 do Ủy ban nhân dân xã Văn Cẩm, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình cấp, do đó hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Ngày 24/7/2020 bà Tnộp đơn xin ly hôn với ông Đỗ Văn Tứ, trong quá trình hòa giải bà Tkiên quyết xin ly hôn, ông T xác định tình cảm vẫn còn, ông không đồng ý ly hôn.

Về yêu cầu xin ly hôn của Bà Nguyễn Thị T; Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng là có, đời sống hôn nhân không còn tồn tại, vợ chồng không còn gắn bó tình cảm, không còn trách nhiệm chăm sóc lẫn nhau và hiện nay các bên vẫn còn mâu thuẫn. Chính điều này cho thấy giữa hai bên đã có những khác nhau về mặt nhận thức, làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục, các mâu thuẫn không được quan tâm giải quyết và hiện tại vẫn còn mâu thuẫn, đều đó chứng tỏ khả năng giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong thực tế cuộc sống vợ chồng là không có. Xét thấy ông bà đã ly thân với nhau từ đầu năm 2020 cho đến nay, mâu thuẫn giữa các bên là không thể giải quyết, sự tin tưởng lẫn nhau trong cuộc sống vợ c hồng cũng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Tvề việc xin ly hôn với ông T.

Về con chung: Căn cứ vào lời trình bày của bà Tvà ông T cũng như giấy khai sinh của 02 người con được bà Tcung cấp trong hồ sơ vụ kiện, có cơ sở xác định quá trình sống chung giữa bà Tvà ông T có 02 người con chung tên Đỗ Trí H, sinh ngày 17/7/1997 và Đỗ Trung T, sinh ngày 17/12/2003. Xét thấy, bà Tyêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng người con chung tên Đỗ Trung T, ông T cũng đồng ý giao con chung cho bà Ttrực tiếp nuôi dưỡng, vì vậy căn cứ vào Điều 58, Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Tđược tiếp tục nuôi dưỡng người con chung tên Đỗ Trung T, sinh ngày 17/12/2003 để ổn định môi trường phát triển và học tập. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Tkhông yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Riêng người con chung tên Đỗ Trí H, sinh ngày 17/7/1997 đã trưởng thành Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xét.

Về nợ chung: Không có Về án phí: Căn cứ vào Luật phí và lệ phí năm 2015. Bà Tphải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 238, Khoản 2 Điều 269, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị T.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn ông Đỗ Văn Tứ.

Đỗ Trung T, sinh ngày 17/12/2003.

Giao người con chung tên Đỗ Trung T, sinh ngày 17/12/2003 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con bà Ttự nguyện không yêu cầu.

Riêng người con chung tên Đỗ Trí H, sinh ngày 17/7/1997 đã trưởng thành. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi khi có lý do chính đáng.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.

3-/ Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (hai trăm ngàn) đồng bà Tđã nộp theo biên lại thu tiền tạm ứng án phí số 0057530 ngày 04/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, bà Tđã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Ông Đỗ Văn Tứ không phải chịu án phí.

3-/ Quyền kháng cáo: Án sơ thẩm xét xử công khai đương sự có mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1226/2020/HNGĐ-ST ngày 02/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1226/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về