Bản án 122/2020/KDTM-PT ngày 27/07/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 122/2020/KDTM-PT NGÀY 27/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 

Ngày 27/ 7/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 50/2020/TLPT-KDTM ngày 19/2/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng.

Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 18/2019/KDTM-ST ngày 29/8/2019 của Toà án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 206/2020/QĐ-PT ngày 20/05/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 281/2020/QĐ-PT ngày 11/6/2020; Quyết định ngừng phiên tòa số 368/QĐ-HPT ngày 2/7/2020; Thông báo mở lại phiên tòa số 346/TP-HPT ngày 7/7/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần A Trụ sở: 130 Phan Đăng Lưu, Quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ chi nhánh thành phố Hà Nội: 181 Nguyễn Lương Bằng, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh T – Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh T – Tổng giám đốc NH TMCP A theo Quyết định số 128/QĐ-DAB-HĐQT ngày 27/4/2016.

Đại diện ủy quyền tham gia tố tụng: Bà Nguyễn Thị Thanh T – Phó Giám đốc PGG Tây Hồ theo Giấy ủy quyền số 891/QĐ-DAB-PC ngày 13/8/2019.

(Có mặt);

Bị đơn: Công ty cổ phần B Địa chỉ: Số 6 ngõ 126 phố Đốc Ngữ, phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn V – Tổng giám đốc. Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn H – Sinh năm 1977 Hộ khẩu thường trú tại: tập thể trung tâm thể dục thể thao, phường Đề Thám, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

( Có mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Ngô Thị Kim T, sinh năm Địa chỉ: P706 tòa nhà Tower CT36, 326 Lê Trọng Tấn, phường Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội.

( Vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960

3. Bà Bùi Thị Minh T, sinh năm 1961

4.Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1996

5.Chị Nguyễn Hồng N, sinh năm 1990 Cùng trú tại địa chỉ: Thôn Lưu Phái, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

( Ông H có mặt; Bà T, anh T, chị N vắng mặt)

6. Ông Phạm Văn V, sinh năm 1951

7. Bà Phạm Thị H, sinh năm 1954 Cùng trú tại địa chỉ: Tổ 36 nhà số 1, ngõ 5 phố Hoàng Sâm, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.

( Ông V có mặt; Bà Huê vắng mặt)

8. Anh Nguyễn Đình Q, sinh năm 1990

9. Chị Lê Thị C , sinh năm 1989

10. Cháu Nguyễn Thùy C, sinh năm 2016 Cháu Chi do anh Q, chị C đại diện theo pháp luật Cùng tạm trú tại: xóm 11 xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội (số mới: số nhà 76 ngõ 119 đường Cổ Nhuế, phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội).

( Anh Q, chị C vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Theo Đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, và tại phiên tòa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần A trình bày:

Công ty cổ phần B ký kết hợp đồng tín dụng với Ngân hàng TMCP A – Chi nhánh TP.Hà Nội – PGD Tây Hồ (gọi tắt là Ngân hàng A). Theo các hợp đồng tín dụng nguyên tắc số H0182/1NT ngày 23/08/2013, H0183/1NT ngày 23/8/2013 và H0184/1NT ngày 23/08/2013 tổng hạn mức ngân hàng TMCP A cấp tín dụng cho Công ty cổ phần B là: 6.500.000.000 VND; Lãi xuất: 13%/năm. Hiện tại đang áp dụng lãi xuất quá hạn là 19,5%/năm; Thời hạn vay: từ 29/08/2013 đến 28/02/2014 (và gia hạn đến 29/12/2014 theo phụ lục hợp đồng); Mục đích vay: bổ sung vốn kinh doanh.

Để bảo đảm cho các khoản vay trên, Công ty Cổ phần B đã thế chấp cho Ngân hàng A các tài sản là các bất động sản sau:

+ Bất động sản tại số 03 dãy G6 Tập thể Trung tâm khoa học kỹ thuật công nghệ quân sự, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, TP hà Nội. Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD142760, số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH4845/QĐ-UBND/2010/544 do UBND quận Cầu Giấy cấp ngày 31/12/2010 mang tên ông Phạm Văn V và bà Phạm Thị H. Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng số:

001357.2013/HĐTCNL ngày 26/8/2013 tại VPCC Tuệ Tĩnh, trị giá TSĐB 3.750 triệu đồng đảm bảo dư nợ tối đa 2.625 triệu đồng. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 27/08/2013 tại Văn phòng đăng ký đất và nhà quận Cầu Giấy.

+ Bất động sản tại Lưu Phái, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BN490975 số vào sổ cấp giấy chứng nhận: 5151/2013/QĐUB/CH01054 do UBND Huyện Thanh Trì cấp ngày 26/07/2013 mang tên ông Nguyễn Văn H và bà Bùi Thị Minh T. Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng số 001356.2013/HĐTCBL ngày 26/08/2013, tại VPCC Tuệ Tĩnh, trí giá tài sản đảm bảo 2.950.000.000 đồng đảm bảo dư nợ tối đa 2.065.000.000 đồng. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 29/08/2013 tại Văn phòng đăng ký đất và nhà huyện Thanh Trì.

+ Bất động sản tại xóm 11 xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số AE 825981 số vào sổ cấp GCN: H1919 do UBND huyện Từ Liêm cấp ngày 08/08/2016 mang tên bà Ngô Thị Kim T. Hợp đồng thế chấp tài sản số công chứng số 001355.2013/HĐTCBL ngày 26/08/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, trị giá tài sản đảm bảo 2.600.000.000 đồng đảm bảo dư nợ tối đa 1.810.000.000 đồng. Đăng ký giao dịch đảm bảo ngày 27/08/2013 tại Văn phòng Đăng ký nhà và đất huyện Từ Liêm.

Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng và các hợp đồng thế chấp ngân hàng đã giải ngân cho cho Công ty B tiền vốn vay là 6.500.000.000 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng từ ngày 29/8/2013 đến ngày 26/8/2019, Công ty B chưa trả tiền nợ gốc, chỉ trả được số tiền nợ lãi trong hạn cho Ngân hàng là 802.750.000 đồng, Công ty B đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng A, không thanh toán được nợ gốc và lãi theo đúng cam kết trong Hợp đồng tín dụng. Do đó Ngân hàng đã phải gia hạn nợ cho Công ty, Ngân hàng đã nhiều lần làm việc yêu cầu Công ty B thanh toán nợ theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết nhưng công ty vẫn không thanh toán, do đó Ngân hàng phải khởi kiện ra Tòa án, đề nghị Công ty B phải thanh toán nợ tạm tính đến ngày 29/8/2019 các khoản sau:

- Gốc : 6.500.000.000 đồng - Lãi trong hạn : 340.347.222 đồng - Lãi quá hạn : : 5.999.500.000 đồng - Tổng cộng : 12.839.847.222 đồng Đề nghị tòa án tiếp tục tính lãi theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi Công ty B thực tế thanh toán hết nợ cho ngân hàng.

Trong trường hợp Công ty cổ phần B không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ, Ngân hàng TMCP A yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát mại 03 tài sản bảo đảm để thu hồi khoản nợ nêu trên. Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp trên sẽ được thanh toán toàn bộ khoản nợ trong hợp đồng tín dụng nêu trên, nếu dư nguyên đơn sẽ trả lại cho bên thế chấp, nếu thiếu thì bên vay tiền tiếp tục trả nợ cho nguyên đơn số tiền thiếu.

* Theo bản trình bày ngày 25/3/2018, và 26/5/2018 bị đơn Công ty cổ phần B, đại diện theo pháp luật là ông Phạm Văn V – Tổng giám đốc trình bày:

Đối với khoản vay của Công ty B với Ngân hàng A, Công ty đang tích cực giải quyết nhưng vì vướng mắc về thủ tục nên chưa giải quyết được sớm đúng như mong muốn. Bản thân ông V vì lý do sức khỏe và công việc nên hiện đang trong thành phố Hồ Chí Minh để cùng mọi người lo nguồn tiền trả nợ ngân hàng nên không thể ra Hà Nội để có mặt theo giấy báo của Tòa án. Đề nghị ngân hàng tạo điều kiện cho công ty thêm thời gian để lo thu xếp tiền trả nợ và đề nghị Tòa án, ngân hàng tạo điều kiện để các gia đình chuộc lại tài sản trên.

*Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

+ Tại bản tự khai ngày 21/12/2017, ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ông H và Công ty B là chỗ quen biết, vì có đôi lúc thực hiện một số công việc dự án xây dựng với nhau, với lời đề nghị thiết tha của lãnh đạo công ty là ông Ngô Duy Hưng và ông Phạm Văn V, để tạo điều kiện có thêm nguồn vốn đầu tư cho thi công xây dựng thuộc các gói thầu đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai và một số công trình khác của công ty, với tinh thần công ty sẽ bảo đảm nguyên vẹn không gây ảnh hưởng có hại cho tài sản bảo đảm của tôi. Do đó chúng tôi đã đồng ý cho công ty mượn tài sản là sổ đỏ mang tên tôi là Nguyễn Văn H. Ngày 26/8/2013 tôi và vợ đã cùng giám đốc và chủ tịch HĐQT công ty B đã ra văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh ký hợp đồng bảo đảm trên nay gia đình tôi có nguyện vọng mong muốn ngân hàng đề nghị các bên liên quan đến làm rõ về thời gian kế hoạch trả nợ để đảm bảo quyền lợi cho chúng tôi.

+ Tại bản tự khai ngày 21 tháng 01 năm 2018, anh Quý và chị Chuyền trình bày: Thực tế vợ chúng tôi chỉ là người thuê nhà của chị Ngô Thị Kim T nên chúng tôi không có quyền lợi gì liên quan tới vụ án. Quá trình thuê chúng tôi không cải tạo, sửa chữa gì nhà đất trên. Vì hiện nay công việc của chúng tôi rất bận, hơn nữa chúng tôi không có quyền lợi gì liên quan nên chúng tôi xin từ chối tham gia tố tụng, và xin vắng mặt tại các buổi làm việc, vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị Tòa án gửi kết quả xét xử vụ án cho chúng tôi theo địa chỉ nhà trên.

Sau khi Tòa án nhân dân quận Ba Đình thụ lý giải quyết vụ án, bà T, bà T, cháu T và cháu N, ông V, bà Huệ với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án làm việc để giải quyết vụ án và cũng không có lời khai gì tại Tòa.

Tại bản án sơ thẩm số 18/2019/KDTM-ST ngày 29/8/2019 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình đã xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần A đối với Công ty cổ phần B .

2. Buộc Công ty cổ phần B phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A số tiền nợ gốc và lãi tạm tính đến ngày 29/8/2019 là:

- Gốc : 6.500.000.000 đồng - Lãi trong hạn : 340.347.222 đồng - Lãi quá hạn : 5.999.500.000 đồng - Tổng cộng : 12.839.847.222 đồng (mười hai tỷ tám trăm ba mươi chín triệu tám trăm bốn mươi bảy ngàn hai trăm hai mươi hai đồng) Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm, Công ty cổ phần B còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng vay vốn số 15301/H006311 ngày 29/8/2013 và các Hợp đồng tín dụng 03 hợp đồng tín dụng số H0182/1NT, H0183/1NT, H0184/NT cùng ngày 23/8/2013 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

3. Trường hợp Công ty cổ phần B không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ khoản nợ trên thì Ngân hàng Thương mại cổ phần A có quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự kê biên, phát mại tài sản bảo đảm sau đây để thu hồi nợ là:

- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất tại thửa đất số 361 tờ bản đồ số 54, địa chỉ xóm 11 xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội (địa chỉ mới là: số nhà 76 ngõ 119 đường Cổ Nhuế, phường Cổ Nhuế 2 quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đứng tên chủ sở hữu là bà Ngô Thị Kim T theo Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1240.2012/TCQSDĐ được văn phòng Công chứng Nguyễn Tú –TP Hà Nội chứng nhận ngày 13/9/2012, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE825981, do UBND huyện Từ Liêm cấp ngày 08/8/2006, số vào sổ H1919 số QĐ 1997/QĐ-UB (theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội (số công chứng: 001355.2013/HĐTCBL quyển số: 02/TP/CC-SCC- HĐGD). Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 3.575.403.611 đồng (ba tỷ năm trăm bảy mươi lăm triệu bốn trăm lẻ ba ngàn sáu trăm mười một đồng), trong đó nợ gốc là: 1.810.000.000 đồng (một tỷ tám trăm mười triệu đồng) và nợ lãi là: 1.765.403.611 đồng (một tỷ bảy trăm sáu mươi lăm triệu bốn trăm lẻ ba ngàn sáu trăm mười một đồng).

- Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất 54, tờ bản đồ 09, địa chỉ thôn Lưu Phái, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 490975 do UBND huyện Thanh Trì cấp ngày 26/7/2013 cho ông Nguyễn Văn H, số vào sổ cấp GCN 5151/2013/QĐ- UB/CH01054 (theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội (số công chứng:

001356.2013/HĐTCBL quyển số: 02/TP/CC-SCC-HĐGD). Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 4.079.120.694 đồng (bốn tỷ không trăm bảy mươi chín triệu một trăm hai mươi ngàn sáu trăm chín mươi bốn đồng), trong đó nợ gốc là: 2.065.000.000 đồng (hai tỷ không trăm sáu mươi lăm triệu đồng) và nợ lãi là: 2.014.120.694 đồng (hai tỷ không trăm mười bốn triệu một trăm hai mươi ngàn sáu trăm chín mươi bốn đồng).

- Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa chỉ số 3 dãy G6 tập thể Trung tâm KHKT-CNQS phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội (số mới: số 1 ngõ 5 phố Hoàng Sâm, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD142760 do UBND quận Cầu Giấy cấp ngày 31/12/2010 cho bà Phạm Thị H và ông Phạm Văn V, số vào sổ cấp GCN: CH 4845/QĐ-UBND/2010/544 (theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội (số công chứng: 001357.2013/HĐTCBL quyển số: 02/TP/CC-SCC-HĐGD). Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 5.185.322.917 đồng (năm tỷ một trăm tám mươi lăm triệu ba trăm hai mươi hai ngàn chín trăm mười bảy đồng), trong đó nợ gốc là: 2.625.000.000 đồng (hai tỷ sáu trăm hai mươi lăm triệu đồng) và nợ lãi là: 2.560.322.917 đồng (hai tỷ năm trăm sáu mươi triệu ba trăm hai mươi hai ngàn chín trăm mười bảy đồng).

Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp trên sẽ được thanh toán toàn bộ khoản nợ trong hợp đồng tín dụng nêu trên, nếu dư nguyên đơn sẽ trả lại cho bên thế chấp, nếu thiếu thì bên vay tiền tiếp tục trả nợ cho nguyên đơn số tiền thiếu.

Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm Ngày 11/9/2019 ông Nguyễn Văn H có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án xem xét và yêu cầu phía ngân hàng làm đúng các bước và dừng khởi kiện để các bên có thời gian khắc phục hậu quả, nhằm thanh toán khoản nợ mà Công ty B đã nợ Ngân hàng, nếu sau những bước trên mà Công ty không thực hiện thì pháp luật mới giải quyết.

Ngày 13/9/2019, bà Ngô Thị Kim T có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng tạo điều kiện cho các đương sự thỏa thuận trả nợ gốc, xóa nợ lãi quá hạn.

Ngày 18/9/2019 ông Phạm Văn V và bà Phạm Thị H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị hủy án sơ thẩm 18/2019/KDTM-ST ngày 29/8/2019 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình để xét xử lại.

Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Ông Nguyễn Văn H cho rằng khi Công ty cổ phần B vi phạm nghĩa vụ thanh toán, thì Ngân hàng không thông báo cho gia đình ông biết là không đúng theo quy định, do đó gia đình ông không đồng ý thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật để bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp cho gia đình ông.

Ông Phạm Văn V cho rằng, khi Công ty vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ cho Ngân hàng thì ngân hàng không thông báo cho Công ty cổ phần B, Công ty không có văn bản gửi ngân hàng xin miễn giảm lãi; Tòa án cấp sơ thẩm không đưa các con, cháu ông vào tham gia tố tụng là vi phạm thủ tục tố tụng và ông khẳng định từ trước cho đến nay Ngân hàng chưa bao giờ gửi các thông báo cho công ty đề nghị công ty thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ gốc, lãi cho ngân hàng. Ông đề nghị Tòa án hủy bản án sơ thẩm.

Các đương sự xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ đã xuất trình cho Tòa án, thì không còn chứng cứ nào khác và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phúc thẩm sau khi tóm tắt nội dung vụ án và phân tích nội dung vụ án trình bày quan điểm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử đã tiến hành xét xử vụ án theo trình tự luật định, các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: xét thấy tại phiên tòa hôm nay Ông H. ông V đều xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ mà các ông đã xuất trình cho Tòa án thì các ông không còn tài liệu nào để xuất trình cho Tòa án. Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xét thấy các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, về hình thức, nội dung phù hợp với quy định của pháp luật, nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn H, ông Phạm Văn V. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm số 18/2019/KDTM- ST ngày 29/8/2019 của Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Về án phí các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Đơn kháng cáo của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Kim T, ông Nguyễn Văn H, ông Phạm Văn V và bà Phạm Thị H làm trong thời hạn luật định, người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm nên việc kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giải quyết là đúng thẩm quyền.

Về yêu cầu kháng cáo của bà Ngô Thị Kim T, bà Phạm Thị H: xét thấy, sau khi xét xử sơ thẩm bà Thoa, bà Huê có đơn kháng cáo, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Quyết định xét xử và các Quyết định hoãn phiên tòa, thông báo mở lại phiên tòa cho bà Thoa, bà Huê nhưng bà Thoa, bà Huê vẫn vắng mặt không có lý do. Việc vắng mặt của bà Thoa, bà Huê được coi là tự từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu kháng cáo của bà Thoa, bà Huê.

Về người tham gia tố tụng:

Tại phiên tòa ông V đề nghị Tòa án đưa các con ông là Phạm Ngọc Tú, Phạm Thị Hồng Hạnh, anh V Lê Huy ( con rể ông), cháu ông là Phạm Nhật Nam, Phạm Hoàng Linh vào tham gia tố tụng với tư các là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, vì các con, cháu ông hiện đang có hộ khẩu và đang sinh sống tại số nhà 1, ngõ 5, tổ 36 phố Hoàng Sâm, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Hơn nữa các con ông là người bỏ tiền ra xây dựng diện tích nhà 3 tầng trên diện tích đất này. Xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm ông V mới đưa ra yêu cầu này, tuy nhiên ông V không xuất trình được chứng cứ để chứng minh về việc các con ông đã bỏ tiền ra xây dựng diện tích nhà 3 tầng; Các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh tại công an phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Công an phường Nghĩa Đô cho biết: “.... Ông Phạm Văn V, bà Phạm Thị H có hộ khẩu thường trú tại số 1, ngõ 5 Hoàng Sâm, Cầu Giấy, Hà nội. Ông V và bà Huê vẫn ở tại địa chỉ trên, nhưng thường xuyên vắng nhà, ngoài ra không có ai ở tại địa chỉ trên”. Vì vậy, Tòa án không đưa anh Phạm Ngọc Tú, chị Phạm Thị Hồng Hạnh, anh V Lê Huy ( con rể ông V), anh Phạm Nhật Nam, chị Phạm Hoàng Linh vào tham gia tố tụng với tư các là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là phù hợp với quy định tại khoản 6 điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này của ông V.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, thông báo mở lại phiên tòa; Giấy triệu tập cho các đương sự trong vụ án. Nhưng tại phiên tòa hôm nay bà Phạm Thị H, bà Bùi Thị Minh T, Anh Nguyễn Đình Q, chị Lê Thị C, cháu Nguyễn Thùy C do anh Quý, chị Chuyền là người đại diện theo pháp luật, đều vắng mặt không có lý do. Anh Nguyễn Thành T, chị Nguyễn Hồng N đều vắng mặt và có đơn đề nghị tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[5].Về nội dung:

Xét yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn H, ông Phạm Văn V. Hội đồng xét xử xét thấy : Các hợp đồng tín dụng số H0182/1NT, H0183/1NT, H0184/NT cùng ngày 23/8/2013 và hợp đồng vay vốn số 15301/H0063/1 ngày 29/8/2013 giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần A và Công ty cổ phần B được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, về hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật, nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.

Quá trình thực hiện hợp đồng ngày 29/8/2013 Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á đã giải ngân cho Công ty B số tiền 6.500.000.000 đồng (theo Giấy nhận nợ ngày 29/8/2013). Quá trình giải quyết vụ án các đương sự xác nhận Công ty B mới thanh toán trả lãi cho Ngân hàng với số tiền là: 802.750.000 đồng, ngoài ra Công ty cổ phần B không trả được một khoản tiền nào khác cho Ngân hàng. Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty cổ phần B phải thanh toán trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á số tiền nợ gốc và nợ lãi tạm tính đến ngày 29/8/2019 là: 12.839.847.222 đồng, trong đó: Nợ gốc là : 6.500.000.000 đồng; Nợ lãi trong hạn là : 340.347.222 đồng; Nợ lãi quá hạn là: 5.999.500.000 đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Tài sản đảm bảo cho khoản vay gồm:

- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất tại thửa đất số 361 tờ bản đồ số 54, địa chỉ xóm 11 xã Cổ Nhuế (địa chỉ mới là: số nhà 76 ngõ 119 đường Cổ Nhuế, phường Cổ Nhuế 2 quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) mang tên bà Ngô Thị Kim T, theo Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1240.2012/TCQSDĐ được văn phòng Công chứng Nguyễn Tú –Thành phố Hà Nội chứng nhận ngày 13/9/2012, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE825981, do UBND huyện Từ Liêm cấp ngày 08/8/2006, số vào sổ H1919 số QĐ 1997/QĐ-UB. Theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội số công chứng:

001355.2013/HĐTCBL quyển số: 02/TP/CC-SCC-HĐGD. Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 3.575.403.611 đồng, trong đó nợ gốc là:

1.810.000.000 đồng : Nợ lãi là: 1.765.403.611 đồng.

- Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất 54, tờ bản đồ 09, địa chỉ thôn Lưu Phái, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 490975 do UBND huyện Thanh Trì cấp ngày 26/7/2013 cho ông Nguyễn Văn H, số vào sổ cấp GCN 5151/2013/QĐ- UB/CH01054 . Theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội số công chứng:

001356.2013/HĐTCBL quyển số: 02/TP/CC-SCC-HĐGD. Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 4.079.120.694 đồng, trong đó nợ gốc là: 2.065.000.000 đồng ; Nợ lãi là: 2.014.120.694 đồng.

- Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa chỉ số 3 dãy G6 tập thể Trung tâm KHKT-CNQS (số mới: số 1 ngõ 5 phố Hoàng Sâm, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội), theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD142760 do UBND quận Cầu Giấy cấp ngày 31/12/2010 cho bà Phạm Thị H và ông Phạm Văn V, số vào sổ cấp GCN: CH 4845/QĐ-UBND/2010/544. Theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội số công chứng: 001357.2013/HĐTCBL quyển số:

02/TP/CC-SCC-HĐGD). Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 5.185.322.917 đồng , trong đó nợ gốc là: 2.625.000.000 đồng; Nợ lãi là: 2.560.322.917 đồng.

Xét yêu cầu kháng cáo của Ông H Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm Ông H không có yêu cầu độc lập đối với yêu cầu xử lý tài sản thế chấp, sau khi xét xử sơ thẩm Ông H chỉ kháng cáo đề nghị Ngân hàng thực hiện các bước thanh toán và dừng việc khởi kiện để các bên có thời gian khắc phục hậu quả thanh toán các khoản nợ của Công ty B, nếu Công ty B không thực hiện việc thanh toán thì pháp luật mới giải quyết. Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa các đương sụ cũng không đưa ra được phương án để giải quyết vụ án. Mặt khác theo quy định tại Điều 293 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, thì yêu cầu kháng cáo này của Ông H vượt quá phạm vi giải quyết của cấp phúc thẩm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét yêu cầu kháng cáo của ông V. Hội đồng xét xử xét thấy theo các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện ngày 14/10/2016, Công ty cổ phần B đã có đơn đề nghị gửi Ngân hàng và hai bên đã có biên bản làm việc, tại các văn bản này do ông V là người đại diện theo pháp luật của Công ty ký với nội dung Công ty đề nghị Ngân hàng miễn giảm lãi cho Công ty và Công ty cam kết hoàn thành nghĩa vụ thanh toán trả nợ còn lại cho ngân hàng sau khi được trừ số tiền lãi được miễn trong quý 1 măm 2017, như vậy việc ông V cho rằng không được biết về tình trạng dư nợ của công ty là không có căn cứ. Ngoài ra ông V cho rằng diện tích nhà 03 tầng trên diện tích đất tại số 1 ngõ 5 phố Hoàng Sâm, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội là do các con ông bỏ tiền ra xây dựng trước khi ông và bà Huê ký hợp đồng thế chấp cho Ngân hàng. Xét thấy, quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa hôm nay ông V mới đưa ra yêu cầu này, tuy nhiên ông V cũng xác nhận ông không có chứng cứ tài liệu gì để chứng minh cho yêu cầu này của mình. Do vậy, không có căn cứ để xem xét đối với yêu cầu này của ông V.

Xét thấy, các hợp đồng thế chấp trên được các bên ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc, về hình thức, nội dung của các hợp đồng đều phù hợp với quy định của pháp luật, nên phát sinh hiệu lực đối với các bên. Do vậy, trường hợp Công ty cổ phần B không thực hiện hoặc thực hiện không đầu đủ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý các tài sản thế chấp nêu trên để thu hồi nợ.

Từ những phân tích trên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ông H và ông V.

Quan điểm của Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ nên được chấp nhận.

Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của Ông H, bà Thoa, bà Huê, ông V không được chấp nhận, nên các ông, bà phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 30, 220, khoản 2 Điều 227, Điều 228 và khoản 1 Điều 308; Điều 314 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 302,305,342,344,351,471,476,478,715,721 Bộ luật dân sự năm 2005.

Áp dụng Điều 91 và Điều 98 Luật tổ chức tín dụng.

Căn cứ Nghị Quyết số 326/ NQ – QH ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm kinh doanh thương mại số 18/2019/KDTM-ST ngày 29/8/2019 của Toà án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần A đối với Công ty cổ phần B .

2. Buộc Công ty cổ phần B phải thanh toán trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A số tiền nợ gốc và lãi theo Hợp đồng vay vốn số 15301/H006311 ngày 29/8/2013 và các Hợp đồng tín dụng 03 hợp đồng tín dụng số H0182/1NT, H0183/1NT, H0184/NT cùng ngày 23/8/2013 tạm tính đến ngày 29/8/2019 tổng cộng là: 12.839.847.222 đồng (mười hai tỷ tám trăm ba mươi chín triệu tám trăm bốn mươi bảy ngàn hai trăm hai mươi hai đồng). Trong đó:

- Nợ Gốc là : 6.500.000.000 đồng - Nợ Lãi trong hạn là : 340.347.222 đồng - Nợ Lãi quá hạn là : 5.999.500.000 đồng Kể từ ngày 30/8/2019, Công ty cổ phần B còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong các Hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

3. Trường hợp Công ty cổ phần B không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ khoản nợ trên cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A, thì Ngân hàng Thương mại cổ phần A có quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ là:

- Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất tại thửa đất số 361 tờ bản đồ số 54, địa chỉ xóm 11 xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm (địa chỉ mới là: số nhà 76 ngõ 119 đường Cổ Nhuế, phường Cổ Nhuế 2 quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội) mang tên bà Ngô Thị Kim T, theo Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 1240.2012/TCQSDĐ được văn phòng Công chứng Nguyễn Tú – TP Hà Nội chứng nhận ngày 13/9/2012. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE825981, do UBND huyện Từ Liêm cấp ngày 08/8/2006, số vào sổ H1919 số QĐ 1997/QĐ-UB, theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội số công chứng: 001355.2013/HĐTCBL quyển số: 02/TP/CC-SCC-HĐGD. Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 3.575.403.611 đồng, trong đó nợ gốc là:

1.810.000.000 đồng; Nợ lãi là: 1.765.403.611 đồng - Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất 54, tờ bản đồ 09, địa chỉ thôn Lưu Phái, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 490975 do UBND huyện Thanh Trì cấp ngày 26/7/2013 mang tên ông Nguyễn Văn H, số vào sổ cấp GCN 5151/2013/QĐ- UB/CH01054 .Theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội số công chứng:

001356.2013/HĐTCBL quyển số: 02/TP/CC-SCC-HĐGD. Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 4.079.120.694 đồng , trong đó nợ gốc là:

2.065.000.000 đồng ; Nợ lãi là: 2.014.120.694 đồng .

- Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa chỉ số 3 dãy G6 tập thể Trung tâm KHKT-CNQS phường Nghĩa Đô (số mới: số 1 ngõ 5 phố Hoàng Sâm, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BD142760 do UBND quận Cầu Giấy cấp ngày 31/12/2010 mang tên bà Phạm Thị H và ông Phạm Văn V, số vào sổ cấp GCN: CH 4845/QĐ-UBND/2010/544. Theo Hợp đồng thế chấp bất động sản ký ngày 26/8/2013 tại Văn phòng công chứng Tuệ Tĩnh, thành phố Hà Nội (số công chứng: 001357.2013/HĐTCBL quyển số: 02/TP/CC-SCC-HĐGD. Tài sản này bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ số tiền 5.185.322.917 đồng, trong đó nợ gốc là:

2.625.000.000 đồng ; Nợ lãi là: 2.560.322.917 đồng.

Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp trên sẽ được thanh toán toàn bộ khoản nợ trong hợp đồng tín dụng nêu trên, nếu dư nguyên đơn sẽ trả lại cho bên thế chấp, nếu thiếu thì bên vay tiền tiếp tục trả nợ cho nguyên đơn số tiền thiếu.

Trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ thì các tổ chức, cá nhân đang kinh doanh, sinh sống, sinh hoạt dưới mọi hình thức trên các tài sản thế chấp có nghĩa vụ chuyển đi nơi khác để thi hành án.

4. Về án phí:

- Công ty cổ phần B phải chịu tiền án phí sơ thẩm là: 120.940.000 đồng (một trăm hai mươi triệu chín trăm bốn mươi ngàn đồng).

- Hoàn trả Ngân hàng thương mại cổ phần A 59.200.000 đồng (năm mươi chín triệu hai trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai số AB/2015/07857 ngày 24/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

- Án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn H; bà Ngô Thị Kim T, ông Phạm Văn V, bà Phạm Thị H mỗi người phải chịu 2.000.000 đồng án phí phúc thẩm. Ông H, bà Thoa mỗi người được trừ vào 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí các ông bà đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005819 ngày 20/9/2019 và 0005816 ngày 19/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình, Hà Nội. Ông Phạm Văn V, bà Phạm Thị H đã nộp 2.000.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0005808 ngày 18/9/2019 của chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình. Ông V, bà Huê mỗi người còn phải nộp 1.000.000 đồng tiền án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

362
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 122/2020/KDTM-PT ngày 27/07/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:122/2020/KDTM-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về