Bản án 12/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 12/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 331/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 344/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Anh T, sinh năm 1989 tại tỉnh Hà Tĩnh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 8 (nay là tổ 5), Phường Bắc Hà, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Chỗ ở: 414/15/15 N, Phường X, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Trần T; Mẹ: Nguyễn Thị M; Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 29-8-2020 (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Anh Trương Văn H, sinh năm 1985; địa chỉ: 656 Bình Giã, Phường 10, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Anh To, sinh năm 1986; địa chỉ: Tổ 8 (nay là tổ 5), Phường Bắc Hà, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 50 ngày 29-08-2020, Trần Anh T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát số 38U1-3401 đi từ phòng trọ qua nhà bạn chơi. Khi đi ngang qua địa chỉ 656 Bình Giã, Phường 10, thành phố Vũng Tàu thì thấy cửa hàng Tân Thành Phát (do anh Trương Văn H làm chủ) đang mở hé cửa. Do thiếu tiền mua ma túy và tiêu xài cá nhân nên T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T dừng xe mô tô lại bên lề đường, đi bộ về phía cửa hàng Tân Thành Phát, nhìn qua khe c ửa thì thấy bên trong bày bán nhiều vật dụng về cơ khí. T tiếp tục quan sát xung quanh, thấy không có người trông coi nên đã đưa tay vào trong c ửa hàng, lén lút lấy trộm 01 máy khoan màu đen hiệu Hitachi, 01 máy khoan màu đỏ hiệu Ken. Lúc này anh H đứng ở địa chỉ 715 Bình Giã (đối diện 656 Bình Giã) nhìn thấy T đang trộm cắp tài sản nên đã tri hô, truy đuổi, bắt giữ T cùng tang vật, giao cho Công an Phường 10.

Tại Cơ quan Công an, Trần Anh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 179/KL-HĐĐG-TTHS ngày 07-10- 2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Vũng Tàu kết luận: 01 máy khoan màu đen hiệu Hitachi trị giá 1.100.000đ, 01 máy khoan màu đỏ hiệu Ken 1.000.000đ, tổng trị giá tài sản là 2.100.000đ (hai triệu một trăm ngàn đồng).

Việc thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan chức năng tiến hành thu giữ vật chứng và các tài sản gồm:

- 01 máy khoan hiệu Ken màu đỏ, 01 máy khoan hiệu Hitachi màu đen, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Hoàng;

- 01 xe máy nhãn hiệu HonDa Dream màu nâu BS:38U1-3401, số khung: RLPWCH1HY7B004965, số máy: V2S152FM248965 (không kiểm tra chất lượng bên trong). Sau khi làm việc với anh Trần Anh To (là anh trai của Trần Anh T) được biết xe mô tô BKS 38U1-3401 có BKS thật là 38N4-5165. Trong quá trình điều khiển xe thì anh To làm rớt biển số. Sau đó, anh To có việc về quê nên giao chiếc xe trên lại cho T quản lý, sử dụng và T đã gắn biển số 38U1-3401 vào. Hiện cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đã chuyển xe mô tô trên đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu gì thêm.

Bản Cáo trạng số 336/CT-VKSTPVT ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Trần Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Trần Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù; Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: trả lại xe mô tô gắn biển số 38U1-3401 cho anh Trần Anh To.

Bị cáo Trần Anh T đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết quả định giá tài sản, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tại phiên tòa: bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Anh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 19 giờ 50 phút ngày 29-8-2020, tại địa chỉ 656 Bình Giã, Phường 10, thành phố Vũng Tàu, Trần Anh T đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh Trương Văn H 01 máy khoan hiệu Ken màu đỏ, 01 máy khoan hiệu Hitachi màu đen, tổng trị giá tài sản là 2.100.000đ (hai triệu một trăm ngàn đồng).

Hành vi do bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành, biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nhằm mục đích có tiền tiêu xài cá nhân nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án: Đối với 01 xe máy nhãn hiệu HonDa Dream màu nâu BS:38U1-3401, số khung: RLPWCH1HY7B004965, số máy: V2S152FM248965 (không kiểm tra chất lượng bên trong), sau khi làm việc với anh Trần Anh To (là anh trai của Trần Anh T) được biết xe mô tô BKS 38U1- 3401 có BKS thật là 38N4-5165 do anh To mua lại chưa làm thủ tục sang tên.

Trong quá trình điều khiển xe thì anh To làm rớt biển số. Sau đó, anh To có việc về quê nên giao chiếc xe trên lại cho T quản lý, sử dụng và T đã gắn biển số 38U1-3401 vào. Anh To không biết bị cáo dùng xe trên làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại xe mô tô trên cho anh To là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Trần Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Trần Anh T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 29 tháng 8 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại cho anh Trần Anh To 01 xe máy nhãn hiệu HonDa Dream màu nâu có gắn biển số:38U1-3401, số khung: RLPWCH1HY7B004965, số máy: V2S152FM248965 (không kiểm tra chất lượng bên trong).

Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 45/BB.THA ngày 04 tháng 11 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (đối với người vắng mặt cũng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết công khai) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về