Bản án 12/2021/HS-PT ngày 29/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 12/2021/HS-PT NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 139/2020/TLPT-HS, ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo C; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 03/2021/QĐXXPT-HS, ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông.

Bị cáo có kháng cáo: C, sinh năm 1959, tại tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Bản Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 8/10; Dân tộc: H’Mông; Con ông C1 và bà G (đều đã chết); Bị cáo có vợ là T, sinh năm: 1962 và 02 con; Nhân thân: Ngày 20/8/1997, bị Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa, tỉnh Lai Châu xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội: “Tàng trử trái phép chất ma tuý” (Bản án số 09/HSST); Ngày 25/11/2013, bị Uỷ ban nhân dân huyện T ra Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh tại trường Giáo dục đào tạo và giải quyết việc làm số 1 xã Đ thời gian 24 tháng, đến ngày 22/9/2015, chấp hành xong. Bị bắt tạm giữ từ ngày 23/5/2020, Tạm giam ngày 01/6/2020, hiện đang bị tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 21/5/2020, C đến lô rẫy cao su thuộc bản Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông mua ma túy của một người phụ nữ dân tộc Tày (không rõ nhân thân lai lịch) với số tiền 400.000 đồng. Đến ngày 22/5/2020, Trần Văn K (sinh năm 1972) trú tại thôn A, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông đến nhà C để mua ma túy. C đã bán cho Trần Văn K 01 gói ni lon bên trong chứa ma túy với giá 200.000 đồng, sau đó Trần Văn K đi về nhà sử dụng hết số ma túy nói trên.

Vào khoảng 10 giờ ngày 23/5/2020, Trần Văn K tiếp tục đến nhà C hỏi mua ma túy. Trần Văn K nói với C bán cho K 100.000 đồng ma túy để dùng vì đang lên cơn nghiện. C đi lại tủ ti vi lấy 01 cục ma túy đựng trong gói nilon sau đó cắt ra một ít đưa cho K sử dụng hết. K đưa cho C 1.000.000 đồng để trả 100.000 đồng ma túy vừa sử dụng và mua thêm 900.000 đồng. C đi vào kiểm tra xem ma túy còn đủ để bán cho Trần Văn K hay không. C lấy một cục ma túy và dùng lưỡi dao lam cắt ra làm hai phần, cắt một ít nghiền ra dạng bột (mục đích là để C sử dụng) và đang chuẩn bị giao ma túy cho Trần Văn K thì bị lực lượng Công an huyện Tuy Đức bắt quả tang cùng tang vật.

Tại bản giám định số: 64/KLMT-PC09, ngày 28/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận:

- Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu trắng được niêm phong trong bì thư thứ nhất gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,8131 gam là Heroine (hoàn lại sau giám định là 0,6684 gam);

- Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu trắng được niêm phong trong bì thư thứ hai gửi giám định đều là ma túy, có tổng khối lượng là 0,1769 gam là Heroine (hoàn lại sau giám định là 0,1221 gam).

Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2020/HS-ST, ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo C 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 23/5/2020.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 30/11/2020, bị cáo C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội xẩy ra vào khoảng 10 giờ ngày 23/5/2020. Bị cáo cho rằng chỉ bán ma tuý là Hêrôin cho Trần Văn K 01 lần thì bị bắt quả tang, chứ không phải bán 02 lần như cáo trạng của Viện kiểm sát và Toà án nhân dân huyện Tuy Đức đã xét xử.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông xác định quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cụ thể vào ngày 22 và 23/5/2020 bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi bán ma tuý (Hêrôin) cho Trần Văn K. Lần thứ nhất bán 01 gói ma tuý với giá 200.000 đồng, lần thứ hai bán cho K 100.000 đồng để sử dụng ngay tại chỗ đồng thời bị cáo đang chuẩn bị ma tuý để tiếp tục bán cho K thì bị bắt quả tang, thu giữ khối lượng ma tuý (Hêrôin) là 0,9900 gam. Tại phiên toà hôm nay bị cáo lại thay đổi lời khai cho rằng chỉ bán ma tuý cho K 01 lần vào ngày 23/5/2020 là không có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, lý do bị cáo chỉ bán một lần ma tuý cho Trần Văn K, ngoài ra không bán lần nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo C đã thay đổi lời khai cho rằng chỉ bán ma tuý là Hêrôin cho Trần Văn K 01 lần thì bị bắt quả tang. Tuy nhiên, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đầy đủ căn cứ kết luận bị cáo đã hai lần bán ma tuý là Hêrôin cho Trần Văn K để sử dụng cụ thể: Lần thứ nhất vào ngày 22/5/2020, bị cáo đã bán cho K 01 gói ma tuý với giá 200.000 đồng, lần thứ hai vào khoảng 10 giờ ngày 23/5/2020, bị cáo tiếp tục bán cho K 01 gói ma tuý là Hêrôin với giá 100.000 đồng để sử dụng ngay tại chỗ đồng thời bị cáo đang chuẩn bị ma tuý để giao cho K thì bị Công an huyện Tuy Đức bắt quả tang, thu giữ khối lượng ma tuý (Hêrôin) là 0,9900 gam. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Mặt khác, bị cáo có nhân thân xấu, ngày 20/8/1997, bị Toà án nhân dân huyện Tủa Chùa, tỉnh Lai Châu xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội tàng trử trái phép chất ma tuý; Ngày 25/11/2013, bị Uỷ ban nhân dân huyện T ra Quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh tại trường Giáo dục đào tạo và giải quyết việc làm số 1 xã Đ thời gian 24 tháng, đến ngày 22/9/2015, chấp hành xong, nhưng bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 8 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

[3]. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình giảm nhẹ nào mới, vợ bị cáo và một số người khác có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và cung cấp giấy khen của bị cáo. Tuy nhiên, đây không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4]. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông tại phiên toà là có căn cứ chấp nhận.

[5]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[6]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo C. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 31/2020/HS-ST, ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo C 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 23/5/2020.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2021/HS-PT ngày 29/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về