Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 558/2020/TLST–HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Bé S, sinh năm 1975. Địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Võ Văn Đ, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị S có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, anh Đ vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/10/2020 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn chị Phan Thị Bé S trình bày: Chị và anh Võ Văn Đ được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 06/8/2007. Việc kết hôn là do hai người tự nguyện tìm hiểu, sau đó mới kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cải nhau, cuộc sống gia đình luôn căng thẳng không hàn gắn được, hiện tại thì anh chị không còn sống chung khoảng ba năm nay, nhận thấy hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị và anh Đ có một người con chung tên Võ Quốc T, sinh ngày 21/8/2010, hiện tại đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Chị và anh Đ không có tài sản chung và cũng không nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Võ Văn Đ: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cũng như triệu tập anh Đ tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng anh Đ vắng mặt không rõ lý do.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử đúng theo quy định của pháp luật, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đúng theo quy định pháp luật, bị đơn anh Đ chưa chấp hành đúng pháp luật tố tụng.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 28, 35, 39 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phan Thị Bé S đối với anh Võ Văn Đ; về con chung: Giao người con chung tên Võ Quốc T, sinh ngày 21/8/2010 cho chị S tiếp tục nuôi dưỡng, hiện tại cháu T đang sống với chị S nên giữ nguyên. Về tài sản chung và nợ: Chị S xác định không có tài sản chung và cũng không nợ ai, không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị S phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử nhận định:

[2]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Phan Thị Bé S yêu cầu ly hôn với anh Võ Văn Đ và yêu cầu được tiếp tục nuôi người con Võ Quốc T, sinh ngày 21/8/2010, nên đây là vụ án dân sự tranh chấp về ly hôn và nuôi con; bị đơn anh anh Võ Văn Đ, cư trú tại ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về sự vắng mặt các đương sự: Chị Phan Thị Bé S có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và được Tòa án chấp nhận; anh Võ Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do; căn cứ các điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, các điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị S và anh Đ.

[4]. Về nội dung vụ án: Chị Phan Thị Bé S và anh Võ Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 06/8/2007, nên hôn nhân giữa chị S và anh Đ là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

[5]. Xét yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Bé S yêu cầu ly hôn với anh Võ Văn Đ. Hội đồng xét xử xét thấy: Chị S xác định quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi do bất đồng quan điểm, gia đình hai bên đã hòa giải nhưng không hàn gắn được, chị S và anh Đ không còn sống chung khoảng ba năm nay, nên hôn nhân anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng.

[6]. Căn cứ Biên bản về việc xác minh tình trạng hôn nhân của chị Phan Thị Bé S và anh Võ Văn Đ ngày 19/11/2020, đại diện Ban nhân dân ấp T, xã A, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu xác định hiện tại anh Đ không có mặt tại địa phương, anh Đ đi đâu và làm gì địa phương không biết, vì khi đi anh Đ không trình báo địa phương. Đồng thời, quá trình chung sống giữa anh Đ và chị S hay cự cải, do bất đồng quan điểm, hôn nhân giữa anh Đ và chị S đã lâm vào tình trạng trầm trọng.

[7]. Mục đích của hôn nhân là để tạo dựng gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải yêu thương, quý trọng và chăm sóc lẫn nhau, nhưng trong thời gian chung sống chị S và anh Đ phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải nhau, cuộc sống gia đình luôn căng thẳng không hàn gắn được, hiện tại chị S và anh Đ không còn sống chung khoảng ba năm nay, nên hôn nhân giữa chị S và anh Đ lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử có căn chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị S đối với anh Đ.

[8]. Về con chung: Chị Phan Thị Bé S xác định chị và anh Võ Văn Đ có một người con chung tên Võ Quốc T, sinh ngày 21/8/2010, hiện tại đang sống với chị S. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu T và không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con. Tại biên bản ghi ý kiến của cháu Võ Quốc T ngày 03/11/2020 có sự chứng kiến của chị Phan Thị Bé S thể hiện cháu T có nguyện vọng được sống cùng với mẹ là chị S. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu Võ Quốc T cho chị S tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[9]. Về tài sản chung và nợ: Chị Phan Thị Bé S xác định, chị và anh Đ không có tài sản chung và cũng không nợ ai, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10]. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Phan Thị Bé S phải chịu theo quy định của pháp luật.

[11]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; các điểm a, b khoản 1 Điều 227; các điểm a, b khoản 1 Điều 238 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phan Thị Bé S đối với anh Võ Văn Đ.

2. Về con chung: Giao người con chung tên Võ Quốc T, sinh ngày 21/8/2010 cho chị Phan Thị Bé S tiếp tục nuôi dưỡng, hiện tại cháu T đang sống với chị S nên giữ nguyên. Anh Võ Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình chị Phan Thị Bé S phải chịu 300.000 đồng. Chị S đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008025 ngày 13 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí toàn bộ.

4. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Chị Phan Thị Bé S và anh Võ Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:12/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về