Bản án 12/2020/HS-ST ngày 18/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Thanh T (tên gọi khác: Sáu T), sinh năm 1987 tại huyện P, tỉnh Bạc Liêu. Nơi cư trú: Ấp P, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ (đã chết) và bà Lê Thị H; có vợ Trần Thị Hồng Đ (đã ly hôn) và 01 con là Phạm Thanh Đ, sinh năm 2007; tiền án: 02 tiền án.

+ Lần thứ nhất: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2011/HSST ngày 08/12/2011 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 06 tháng tù về tội đánh bạc (chưa thi hành nghĩa vụ nộp sung công quỹ Nhà nước số tiền 14.000.000 đồng).

+ Lần thứ hai: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2019/HSST ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2012/HSST ngày 17/10/2012 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2014/HSST ngày 16/12/2014 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/3/2020 đến nay (có mặt).

- Bị hại: Anh Dương Văn T2 (Tên gọi khác: Dương Văn T1), sinh năm 1979 và chị Nguyễn Thị Chúc L, sinh năm 1983. Cùng cư trú: Ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 00, ngày 27/3/2020 bị cáo cùng người bạn tên C (Không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể) ngồi nhậu tại nhà của bị cáo thuộc ấp P, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. Sau đó, C rủ bị cáo về nhà C chơi và cả hai cùng đi trên chiếc xe mô tô của C (Không rõ biển số xe). Khi đi đến cửa hàng T1 thuộc ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu, C phát hiện cửa hàng T1 khóa cửa ngoài không người trong coi, lúc này C nói với bị cáo “Có nhà khóa cửa ngoài kìa coi vào lấy được gì thì lấy” bị cáo đồng ý, C dừng xe lại, bị cáo bước xuống xe thì C lấy ra 01 cây Xà beng đưa cho bị cáo để cạy khoen khóa cửa nhà mà C đã chỉ, cạy cửa xong bị cáo ra đứng trước lộ để cảnh giới cho C vào lấy trộm tài sản trong nhà là 01 máy phun thuốc nhãn hiệu Kawashima FH – 769 và 01 máy phun thuốc nhãn hiệu Volga VH- 26L của anh Dương Văn T1 mang ra để trên lề lộ phía trước cửa hàng nhưng chưa kịp mang đi thì bị người dân phát hiện truy hô đuổi bắt được bị cáo giao cho Công an xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu, còn C thì lên xe mô tô của C đang đậu chạy thoát.

Tại Bản kết luận định giá số 04/KL-ĐGTS ngày 30/3/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu kết luận: 01 máy phun thuốc nhãn hiệu Kawashima FH–769 mà cơ quan điều tra yêu cầu định giá, có giá trị 5.350.000đ (năm triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng); 01 máy phun thuốc nhãn hiệu Volga VH-26L mà cơ quan điều tra yêu cầu định giá, có giá trị 4.350.000đ (bốn triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng). Tổng 02 tài sản trên có giá trị là 9.700.000đ (chín triệu bảy trăm nghìn đồng).

Về tang vật vụ án: 01 máy phun thuốc nhãn hiệu Kawashima FH – 769 và 01 máy phun thuốc nhãn hiệu Volga VH-26L đã trả lại cho chủ sở hữu. Đối với 01 ổ khóa bằng kim loại hiệu USC; 02 khoen cửa bằng kim loại; 01 cây Xà beng bằng kim loại dài 51,5cm x 1,7cm, hai đầu dẹp 2,5cm và 03cm, hiện đang được bảo quản theo quy định pháp luật Tại bản Cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 13/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu truy tố bị cáo Phạm Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 ổ khóa bằng kim loại hiệu USC; 02 khoen cửa bằng kim loại; 01 cây Xà beng bằng kim loại dài 51,5cm x 1,7cm, hai đầu dẹp 2,5cm và 03cm. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị hại là anh Dương Văn T1 và chị Nguyễn Thị Chúc L đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Xét thấy, sự vắng mặt của anh T1 và chị L không cản trở cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh T1 và chị L.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, Biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 00 giờ ngày 28/3/2020, bị cáo T cùng với người tên C dùng Xà beng cạy khóa cửa, đột nhập vào Đại lý T1 do anh Dương Văn T1 làm chủ thuộc ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu lấy trộm 02 máy phun thuốc thì bị bắt quả tang. Tài sản qua giám định có giá trị là 9.700.000 đồng. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và thực hiện với lỗi cố ý nên đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do bị cáo có 02 tiền án: Vào ngày 08/12/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu xét xử về tội đánh bạc và ngày 08/10/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu xét xử về tội trộm cắp tài sản, tính đến ngày phạm tội, 02 tiền án này đều chưa được xóa án tích nên phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 …, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:…

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:... g. Tái phạm nguy hiểm”. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của bị hại mà còn gây mất trật tự tại địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo ý thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích vụ lợi bị cáo đã bất chấp pháp luật. Ngoài 02 tiền án, bị cáo còn bị kết án 02 lần về tội trộm cắp tài sản vào năm 2012 và năm 2014 nên bị cáo có nhân thân rất xấu. Qua đó, thể hiện bị cáo là người khó cải tạo và coi thường pháp luật, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo; tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 9.700.000 đồng, được thu giữ và trả lại cho bị hại nên mức độ thiệt hại xảy ra trên thực tế đối với bị hại là không lớn; bị hại có đơn xin bãi nại giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt 01 máy phun thuốc nhãn hiệu Kawashima FH – 769 và 01 máy phun thuốc nhãn hiệu Volga VH – 26L. Đây là tải sản chung của vợ chồng anh T1, chị L. Trong quá trình điều tra đã trả lại cho anh T1, chị L và anh T1, chị L không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng trong vụ án: Tịch thu và tiêu hủy 01 cây Xà beng bằng kim loại dài 51,5cm x 1,7cm, hai đầu dẹp 2,5 cm và 03 cm do đây là công cụ phạm tội. Đối với 01 ổ khóa bằng kim loại, hiệu USC; 02 khoen cửa bằng kim loại không có giá trị và không sử dụng được nên tịch thu và tiêu hủy.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về áp dụng điều luật, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, mức hình phạt và xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

[10] Đối với người tên C, quá trình điều tra bị cáo khai báo đã cùng bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh T1, do bị cáo không biết cụ thể họ tên và địa chỉ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người này nên không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh T (Tên gọi khác: Sáu T) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/3/2020.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) ổ khóa bằng kim loại hiệu USC; 02 (hai) khoen cửa bằng kim loại; 01 (một) cây Xà beng bằng kim loại dài 51,5cm x 1,7cm, hai đầu dẹp 2,5 cm và 03 cm.

(Vật chứng nêu trên được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/7/2020).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Thanh T (Tên gọi khác: Sáu T) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 18/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lợi - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về