Bản án 12/2020/HS-ST ngày 04/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 04/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 năm 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:12/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2020/HSST-QĐ ngày 03 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Gia T sinh năm 1988 tại Mỹ Đức – Hà Nội; nơi cư trú: Thôn Đ, xã ĐT, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Sự và bà Trương Thị T; có vợ là Nguyễn Thị Anh Th (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2011; tiền sự: Không.

- Tiền án: Có 01 tiền án. Tại bản án số: 39/2017/HSST ngày 08/5/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội phạt 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 19/12/2019, chuyển tạm giam từ ngày 27/12/2019 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Bạch Thế S sinh năm 1992. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn Đ xã A, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.

+ Chị Nguyễn Thị H sinh năm 1997. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Xóm 07, xã H, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

+ Anh Lê Đình A sinh năm 2000. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn H, xã ĐT, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn N sinh năm 1972. Vắng mặt.

+ Anh Lê Đình T sinh năm 1979. Vắng mặt.

Cùng cư trú: Thôn Đ, xã ĐT, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/12/2019, T đi taxi từ thôn Đ, xã ĐT, huyện Mỹ Đức đến khu vực Khương Đình, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội tìm mua và được một người đàn ông không quen biết bán cho 2.200.000 đồng ma túy. T đem ma túy về nhà nghỉ Sao Đêm tại thôn Đ, xã ĐT cho Nguyễn Thị H, Lê Đình A cùng sử dụng. Ngày 18/12/2019, cả ba chuyển sang nhà nghỉ Hai Ngõ cùng thôn Đ, xã ĐT, T tiếp tục lấy ma túy ra cùng Huyền và An sử dụng, số còn lại chia nhỏ đưa vào 06 ống nhựa cất trong túi để sử dụng và bán. Đến khoảng 11 giờ 10 phút ngày 19/12/2019, Bạch Thế Song gọi điện đến cho T từ số máy 0988759390 hỏi mua 500.000 đồng ma túy và T đồng ý. Một lúc sau, Song đến trước cổng nhà nghỉ gọi điện lại, T mang ma túy xuống bán khi đang giao nhận, bị phát hiện, hoảng sợ đã vứt số ma túy mang theo xuống đất thì bị bắt hồi 11 giờ 30 phút ngày 19/12/2019. Vật chứng thu giữ:

+ 02 đoạn ống nhựa màu tím, bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 điện thoại di động Iphone 6 plus vỏ màu xám có số thuê bao 0862589885 (thu của T).

+ 01 điện thoại di động Nokia 215 vỏ màu đen có số thuê bao 0988759930 và 500.000 đồng (thu của Bạch Thế Song).

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Đức đã thực hiện lệnh khám xét khẩn cấp tại phòng 301 nhà nghỉ Hai Ngõ nơi T đang thuê trọ, thu giữ: 03 túi nilon (01 túi bên trong có 2 ống nhựa; 02 túi bên trong ống nhựa chứa chất tinh thể màu trắng) 01 cân tiểu ly điện tử và 01 bộ tẩu hút thủy tinh.

Quá trình điều tra làm rõ: Trước đó Nguyễn Gia T đã 02 lần bán ma túy cho Bạch Thế Song (Một lần vào tối ngày 17/12/2019, một lần vào khoảng 9 giờ 30 phút ngày 19/12/2019) với thủ đoạn Song đều gọi điện thoại hỏi mua và T đem ma túy đến trước cổng nhà nghỉ Sao Đêm giao cho Song thu 600.000 đồng (mỗi lần là 300.000 đồng).

- Về các vấn đề khác của vụ án:

Ngày 19/12/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Đức có Quyết định trưng cầu giám định số: 06/CSĐT. Tại Kết luận giám định số:

8265/KLGĐ-PC09 ngày 26/12/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội kết luận:“Tinh thể màu trắng bên trong 02 ống nhựa màu tím (Mẫu số 01) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,293 gam. Tinh thể màu trắng bên trong 02 ống nhựa màu tím và 02 nilông (Mẫu số 02) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,968 gam”. Tổng hai mẫu là 1,261 gam Methamphetamine.

Ngày 26/12/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Đức đã ra Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm số: 01/CSĐT, yêu cầu Tập đoàn công nghiệp viễn thông quân đội xác định thông tin liên lạc giữa số điện thoại 0862589885thu giữ của Nguyễn Gia T và số điện thoại 0988759930 thu giữ của Bạch Thế S. Kết quả từ thời điểm 21 giờ 59 phút ngày 17/12/2019 đến 11 giờ 25 phút ngày 19/12/2019 giữa hai số thuê bao nêu trên đã 07 lần liên lạc với nhau và các đối tượng liên quan thừa nhận sử dụng trao đổi mua bán ma túy.

Đối với Bạch Thế Song, Lê Đình A và Nguyễn Thị H: Ngày 31/12/2019, Trưởng Công an huyện Mỹ Đức đã ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép ma túy là đúng pháp luật.

Về đối tượng đã bán ma túy cho T do không xác định được lý lịch nên không có cơ sở xác minh làm rõ.

Đối với Nguyễn Văn N, Lê Đình T đã cho T thuê nhà nghỉ nhưng không biết T mang theo ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

- Về trích dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát:

Cáo trạng số: 22/CT-VKS-MĐ ngày 20/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Gia T về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 02 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 02 Điều 251; điểm s khoản 01 Điều 51; điểm h khoản 01 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 8 năm 06 tháng đến 9 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với 02 phong bì mẫu vật của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội có chữ ký của giám định viên và bị cáo, 01 cân tiểu ly, 01 bộ tẩu hút tự tạo bằng thủy tinh. Đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 6 plus vỏ màu xám có số thuê bao 0862589885 của T, 01 điện thoại di động Nokia 215 vỏ màu đen có số thuê bao 0988759930 của Bạch Thế Song và 500.000 đồng của Bạch Thế Song.

Về số tiền phạm tội mà có: Buộc bị cáo truy nộp 600.000 đồng phạm tội mà có.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Đức, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có cơ sở vững chắc kết luận: Hồi 11 giờ 30 phút ngày 19/12/2020, Nguyễn Gia T có hành vi bán 1,261 gam ma túy loại Methamphetamine cho Bạch Thế Song. Trước đó, ngày 17/12/2019, Nguyễn Gia T đã 02 lần bán ma túy cho Bạch Thế Song thu 600.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Gia T đã cấu thành tội:“Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 02 Điều 251 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng; hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cao cho xã hội; không những trực tiếp xâm hại tới chính sách độc quyền quản lý về chất ma túy của nhà nước mà còn xâm phạm đến trật tự, trị an tại địa phương nên cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm khắc đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 01 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Song cũng xét, sau khi bị bắt và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 01 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, bị cáo đã tái phạm, tội phạm thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng; thể hiện T độ coi thường pháp luật. Vì thế, để phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy ở địa phương đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp thì cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 02 đoạn ống nhựa màu tím, bên trong chứa tinh thể màu trắng; 03 túi nilon bên trong có chứa ma túy thu giữ của T là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành và 01 cân tiểu ly, 01 bộ tẩu thủy tinh liên quan đến tội phạm cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động Iphone 6 plus vỏ xám có số thuê bao 0862589885 của T, 01 điện thoại di động Nokia 215 vỏ đen có số thuê bao 0988759930 của Bạch Thế Song là công cụ, phương tiện và số tiền 500.000 đồng của Bạch Thế Song dùng vào việc phạm tội cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[7] Về số tiền phạm tội mà có: Buộc bị cáo phải truy nộp 600.000 đồng do trước đó nhiều lần bán ma túy cho Bạch Thế Song mà có.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Gia T phạm tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 02 Điều 251; điểm s khoản 01 Điều 51, điểm h khoản 01 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Phạt: Nguyễn Gia T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 19/12/2019.

Khôngg áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì mẫu vật của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hà Nội có chữ ký của giám định viên và bị cáo; 01 cân tiểu ly điện tử; 01 bộ tẩu hút tự tạo bằng.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 6 plus vỏ màu xám; 01 điện thoại di động Nokia 215 vỏ màu đen và 500.000 đồng của Bạch Thế Song.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/3/2020 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức với Công an huyện Mỹ Đức và Ủy nhiệm chi ngày 25/3/2020 của Công an huyện Mỹ Đức) 3. Về số tiền phạm tội mà có: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

Buộc bị cáo Nguyễn Gia T phải truy nộp 600.000 đồng phạm tội mà có.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 01 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Gia T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo; kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 04/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về