Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 18 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 213/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXX-ST ngày 16 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Đặng Văn T, sinh năm 1976; địa chỉ: Khu 1, xã B, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Trần Thị Thu H, sinh năm 1967, địa chỉ: Khu 4, xã B, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21 tháng 5 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Đặng Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh có tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn với chị H ngày 07/12/2005 tại UBND xã B, huyện Hạ Hòa. Quá trình chung sống ban đầu hòa thuận. Năm 2011, chị H đi làm ăn ở Hà Nội, từ đó chị H ít về thăm nhà và thăm anh, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống. Từ năm 2015 đến nay, chị H không về thăm anh nữa, chị H chỉ về thăm mẹ đẻ ở khu 4, xã B, huyện H. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 đến nay, không quan tâm đến cuộc sống và tình cảm của nhau nữa. Nay thấy tình cảm không còn, không thể tiếp tục chung sống được nữa nên anh xin ly hôn với chị H.

Về con chung: Không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa anh Đặng Văn T vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là chị Trần Thị Thu H đã được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.

Ý kiến của Ủy ban nhân dân xã B: Anh T và chị H kết hôn ngày 07/12/2005, tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Phú Thọ, sau đó chuyển về sống tại khu 4 (khu 8 cũ), xã B, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống ban đầu hòa thuận, về sau phát sinh mâu thuẫn do chị H thường đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về địa phương, mỗi lần giỗ bố đẻ có về thăm nhà mẹ đẻ, gần đây rất ít quan tâm đến anh T. Nay anh T xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Vụ án thụ lý đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án, những người tiến hành tố tụng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Những người tham gia tố tụng dân sự chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đặng Văn T được ly hôn với chị Trần Thị Thu H.

Về con chung: Không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có. Không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí: Miễn án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm cho anh Đặng Văn T vì là hộ nghèo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Phiên tòa lần thứ nhất ngày 31/7/2020, bị đơn là chị Trần Thị Thu H đã được triệu tập hợp lệ, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn là chị Trần Thị Thu H đã được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn là anh Đặng Văn T vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 1 Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]Về quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị H được xác lập và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống ban đầu hòa thuận nhưng sau đó có mâu thuẫn phát sinh do chị H thường đi làm ăn xa, ít quan tâm đến anh T. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 đến nay.

Vợ chồng không còn thực hiện nghĩa vụ thương yêu, chung sống với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Xét thấy tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu kéo dài thì không có lợi cho cả hai bên, anh T cương quyết xin ly hôn với chị H vì tình cảm không còn, Chị H không có biện pháp gì để anh T về đoàn tụ với chị.

Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu và xử cho anh T được ly hôn với chị H.

[3]Về con chung: Không có. Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản chung, công nợ, công sức:

Anh T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không giải Chị H vắng mặt nên không có lời khai, yêu cầu gì nên Tòa án không xem xét.

Nếu có yêu cầu sẽ được xem xét trong một vụ, việc khác.

[5]V ề á n p h í : Miễn án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm cho anh Đặng Văn T vì là hộ nghèo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đặng Văn T được ly hôn với chị Trần Thị Thu H.

Về con chung: Không có. Không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có. Không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí: Miễn án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm cho anh Đặng Văn T vì là hộ nghèo.

Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để đề nghị toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về