Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 17/06/2020 về tranh chấp ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 81/2020/TLST - HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXX-ST ngày 19/5/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn : Chị Đoàn Thị L, sinh năm 1967. ĐKHKTT: Số 01 ngõ 109 phố C, phường T, quận C, Hà Nội.

Nơi ở hiện tại: Số nhà 26B khu tập thể Q, phường T, quận C, Hà Nội.

Bị đơn : Anh Vũ Hồng C, sinh năm 1962.

ĐKHKTT và nơi ở hiện tại: Số 01 ngõ 109 phố C, phường T, quận C, Hà Nội.

(Có mặt chị L, vắng mặt anh C).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 12 năm 2019 và được bổ sung bằng lời khai tại Bản tự khai ngày 26 tháng 2 năm 2020 và các buổi làm việc tại tòa án, nguyên đơn là chị Đoàn Thị L trình bày:

Về tình cảm: Chị Đoàn Thị L và anh Vũ Hồng C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện T, tỉnh B vào ngày 03/05/1995. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung ở tỉnh B, đến năm 1996 chúng tôi chuyển đến sinh sống tại số 01 ngõ 109 phố C, phường T, quận C, Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng không hòa thuận, đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không phù hợp, thiếu sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Cả hai đã cố gắng để hòa giải và hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 9/2019 đến nay, chị L về sống tại địa chỉ nhà 26B khu tập thể Q, phường T, quận C, Hà Nội. Nay chị L nhận thấy cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Tòa án nhân dân quận C giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Hồng C.

Về con chung: Chị L và anh C có 02 con chung là Vũ Tuấn A (nam), sinh ngày 24/7/1991 và Vũ Linh C (nữ), sinh ngày 01/02/2001. Các con chung của anh chị đều đã trưởng thành việc ở với ai là quyền của các cháu.

Về tài sản chung (động sản, bất động sản): Chị L và anh C tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ: Chị L và anh C xác nhận không nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 29 tháng 4 năm 2020 và các buổi làm việc tại Tòa án, bị đơn là anh Vũ Hồng C trình bày:

Về tình cảm: Anh Vũ Hồng C hoàn toàn nhất trí với ý kiến của chị Đoàn Thị L đã trình bày về thời gian kết hôn, quá trình chung sống của anh chị. Còn về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như chị L trình bày là chưa chính xác. Anh không đồng ý ly hôn với chị L vì những mâu thuẫn trong quá trình vợ chồng chung sống không có gì đáng kể, chủ yếu là bất đồng về vấn đề tài chính, kinh tế gia đình. Tuy nhiên, chị L đã chuyển về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 9/2019 đến nay. Chị L xin ly hôn nhưng anh C không đồng ý vì anh mong muốn gia đình đoàn tụ và con cái phải có cả bố lẫn mẹ. Anh C đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L để anh có cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Về con chung: Anh C và chị L xác nhận có 02 con chung là Vũ Tuấn A (nam), sinh ngày 24/7/1991 và Vũ Linh C (nữ), sinh ngày 01/02/2001. Các con chung của anh chị đều đã trưởng thành việc ở với ai là quyền của các cháu.

Về tài sản chung (động sản, bất động sản): Anh C và chị L tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ: Anh C và chị L xác nhận không nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài những yêu cầu trên chị L và anh C không đề nghị Tòa án giải quyết thêm vấn đề nào khác.

Tại phiên tòa hôm nay, chị L vẫn giữ nguyên những yêu cầu đã trình bày và đề nghị Tòa án chấp nhận những yêu cầu của chị. Anh C có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận C, thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến về việc tuân theo Pháp luật Tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

- Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu; các đương sự chấp hành yêu cầu của Tòa án về việc giao nộp chứng cứ.

- Nguyên đơn có mặt. Bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định của pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Đoàn Thị L về việc đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Hồng C; Về con chung: Chị L và anh C xác nhận có 02 con chung là Vũ Tuấn A (nam), sinh ngày 24/7/1991 và Vũ Linh C (nữ), sinh ngày 01/02/2001. Các con chung của anh chị đều đã trưởng thành việc ở với ai là quyền của các cháu; Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị L và anh C không yêu cầu giải quyết nên không xem xét;

Về nợ: Hai bên xác nhận không nợ ai và không cho ai vay nợ nên không xem xét; Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị L phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả thảo luận, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Chị Đoàn Thị L có đơn yêu cầu giải quyết ly hôn đối với anh Vũ Hồng C. Do đó, đây là vụ án tranh chấp ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Bị đơn là anh Vũ Hồng C hiện nay đang cư trú tại số 01 ngõ 109 phố Trần Cung, phường Nghĩa Tân, quận C, thành phố Hà Nội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS Tòa án nhân dân quận C thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Về trình tự tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự. Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt và trình bày các quan điểm, yêu cầu của mình; bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điều 227; điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

- Về tình cảm: Chị Đoàn Thị L kết hôn với anh Vũ Hồng C trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ngày 03/05/1995, nên quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh C là hợp pháp.

Quá trình chung sống chị L và anh C chỉ hòa thuận được một thời gian thì phát sinh nhiều mâu thuẫn và không có hạnh phúc, nguyên nhân chủ yếu do bất đồng quan điểm sống, tính cách không phù hợp, thiếu sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau và những mâu thuẫn trong cuộc sống không được giải quyết mà cứ tích tụ lại dẫn tới việc anh chị sống ly thân, chị L đã về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 9/2019 đến nay. Nay chị L xác định mâu thuẫn vợ chồng không thể giải quyết được, không có khả năng đoàn tụ, tình cảm vợ chồng không còn, chị kiên quyết xin ly hôn. Bản thân anh C cũng thừa nhận trong quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chỉ do những nguyên nhân nhỏ nhặt, không có gì đáng kể, chủ yếu là bất đồng về vấn đề tài chính, kinh tế gia đình, chưa đến mức phải ly hôn và anh cũng mong muốn con cái phải đầy đủ cả cha và mẹ nên anh không đồng ý ly hôn với chị L.

Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân tồn tại phải trên cơ sở tình cảm tự nguyện của cả hai bên, không vì bất cứ mục đích nào khác. Lý do anh C không đồng ý ly hôn không phải là căn cứ để tồn tại hạnh phúc gia đình. Thực tế mâu thuẫn của anh chị đã căng thẳng, kéo dài, tháng 9/2019 chị L đã về nhà mẹ đẻ ở. Mặc dù đã được Tòa án hòa giải nhưng anh C chưa đưa ra biện pháp cải thiện tình cảm vợ chồng và chị L kiên quyết xin được ly hôn. Do vậy cuộc sống chung vợ chồng giữa chị L và anh C không thể tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị L yêu cầu được ly hôn với anh C là có căn cứ, phù hợp thực tế và phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cần được chấp nhận.

- Về con chung: Chị L và anh C xác nhận có 02 con chung là Vũ Tuấn A (nam), sinh ngày 24/7/1991 và Vũ Linh C (nữ), sinh ngày 01/02/2001. Các con chung của anh chị đều đã trưởng thành nên việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng không đặt ra, ở với ai là quyền của các cháu.

- Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị L và anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ: Chị L và anh C xác nhận vợ chồng không nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: Chị L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003293 ngày 14 tháng 2 năm 2020 của C cục Thi hành án dân sự quận C, thành phố Hà Nội. Xác nhận chị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Căn cứ điều 271, 273 Bộ luật tố tụng Dân sự: Chị L, anh C được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Khoản 4 Điều 147, Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đoàn Thị L đối với anh Vũ Hồng C. Chị L được ly hôn với anh C.

2. Về con chung: Xác nhận chị L và anh C có hai con chung là Vũ Tuấn A (nam), sinh ngày 24/7/1991 và Vũ Linh C (nữ), sinh ngày 01/02/2001. Các con chung của anh chị đều đã trưởng thành việc ở với ai do các cháu quyết định.

3. Về tài sản chung (Động sản và bất động sản): Chị L và anh C không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về nợ: Chị L và anh C xác nhận không nợ ai và không cho ai vay nợ nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Đoàn Thị L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003293 ngày 14 tháng 2 năm 2020 của C cục Thi hành án dân sự quận C, thành phố Hà Nội. Xác nhận chị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị L được quyền kháng bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh C được quyền kháng bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 17/06/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về