Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 12/06/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH N

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 12 tháng 06 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 151/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2019 về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 04 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20/5/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1987; địa chỉ thôn S, xã H, huyện P, thành phố H; Vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1980; địa chỉ thôn B, xã G, huyện V, tỉnh N; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 17 tháng 12 năm 2019, và các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Phạm Thị H trình bày: Giữa chị Phạm Thị H và bị đơn là anh Trần Văn H, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 16 tháng 12 năm 2011, tại Uỷ ban nhân dân xã G, huyện V, tỉnh N. Sau khi kết hôn hai người chung sống cùng nhau tại thôn S, xã S, huyện P, thành phố H. Chị Phạm Thị H và anh Trần Văn H chung sống hoà thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2013 thì tình cảm vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do tính tình không hợp, kinh tế gia đình khó khăn, anh H không tu trí làm ăn, thường xuyên chơi cờ bạc không quan tâm đến vợ con, nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi, đánh nhau, không quan hệ với nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên anh H đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn B, xã G, huyện V, tỉnh N để ở và hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2014 cho tới nay. Chị H thấy tình cảm vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị H đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn H.

Về con chung chị Phạm Thị H trình bày: Vợ chồng chị có hai con chung cháu lớn là Trần Hải Ph, sinh ngày 10/9/2012; cháu nhỏ là Trần Tường V, sinh ngày 16/01/2015. Từ khi ly thân chị là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai con chung. Nếu được Tòa án chấp nhận cho ly hôn, chị H đề nghị Tòa án giao hai con chung cho chị là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sau ly hôn, chị không yêu cầu anh Trần Văn H phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

Về quan hệ tài sản và công nợ chung: Chị Phạm Thị H không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về phía bị đơn là anh Trần Văn H đã được Tòa án giao thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng cố tình vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

- Xử: Cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Trần Văn H;

- Về con chung. Giao cho chị Phạm Thị H tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Hải Ph, sinh ngày 10/9/2012 và cháu Trần Tường V, sinh ngày 16/01/2015, cho tới khi hai cháu đủ 18 tuổi. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Phạm Thị H có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Văn H; anh Trần Văn H có nơi cư trú tại xã G, huyện V, tỉnh N, đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Nguyên đơn chị Phạm Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn anh Trần Văn H đã được Tòa án nhân dân huyện V triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị H và anh Trần Văn H trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã G, huyện V, tỉnh N vào ngày 16 tháng 12 năm 2011. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ, sau khi kết hôn hai người chung sống hoà thuận hạnh phúc đến cuối năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do tính tình vợ chồng không hợp, kinh tế gia đình khó khăn, anh H thường xuyên chơi bời, cờ bạc không quan tâm đến vợ con, khi được chị H và gia đình khuyên bảo nhưng anh H không nghe, dẫn đến vợ chồng cãi chửi nhau, đánh nhau. Theo thời gian, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng, nặng nề, thực tế anh H đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn B, xã G, huyện V, tỉnh N để ở và vợ chồng đã ly thân nhau từ tháng 08 năm 2014 đến nay, cũng từ đó hai người không quan tâm đến nhau, quan hệ vợ chồng chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Điều này phù hợp với đơn xin xác nhận ngày 19/02/2020 do chị H giao nộp cho Tòa án, có xác nhận của trưởng thôn S và UBND xã S. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện V đã giao thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng anh Trần Văn H cố tình vắng mặt không có lý do. Điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật, không còn thiện chí để tìm cách đoàn tụ vợ chồng, chứng tỏ quan hệ vợ chồng giữa chị H và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị H.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Phạm Thị H và anh Trần Văn H có hai con chung cháu lớn là Trần Hải Ph, sinh ngày 10/9/2012; cháu nhỏ là Trần Tường V, sinh ngày 16/01/2015. Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai con chung. Việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là quyền, đồng thời cũng là nghĩa vụ của cha mẹ. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Hội đồng xét xử xét thấy, chị H và anh H có hai con chung; cháu P đã trên bẩy tuổi, cháu V đã trên ba tuổi, chị H là người bán hàng ăn uống, có thu nhập. Từ khi ly thân hai con chung đều do chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chị H không yêu cầu anh Trần Văn H phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị. Trong thời gian trước đây và hiện tại cháu Trần Hải P và cháu Trần Tường V đều do chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo đảm tốt về mọi mặt. Anh Trần Văn H không có lời khai, không có mặt tại phiên tòa, nên không có quan điểm của anh H về con chung. Quan điểm của chi H đưa ra là tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của cháu P, không trái pháp luật. Vì vậy, cần giao hai con chung Trần Hải Ph và Trần Tường V cho chị Phạm Thị H là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục sau ly hôn, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Trần Văn H cho chị Phạm Thị H. Sau này nếu hai bên có tranh chấp về việc nuôi và cấp dưỡng nuôi con chung Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[4] Về quan hệ tài sản chung và công nợ chung: Chị Phạm Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản chung, công nợ chung. Vì vậy, vấn đề tài sản chung và công nợ chung, Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Phạm Thị H và anh Trần Văn H được ly hôn;

2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục hai con chung Trần Hải Ph, sinh ngày 10/9/2012 và Trần Tường V, sinh ngày 16/01/2015.Thời hạn nuôi con tính từ ngày 12/06/2020 cho tới khi mỗi con chung đủ 18 tuổi, nếu không có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Trần Văn H cho chị Phạm Thị H.

Khi nào chị H có yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Được khấu trừ 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V theo biên lai số AA/2013/0001341 ngày 20/12/2019.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 12/06/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về