TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 12/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 7 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
BÙI VĂN T, sinh ngày 13 tháng 12 năm 1992 tại  N - L S - Hòa Bình. Nơi cư trú: Xóm T, xã  N, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N và bà Bùi Thị N; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/02/2019, tạm giam từ ngày 06/3/2019. Có mặt tại phiên tòa.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người chứng kiến:
Anh Bùi Duy T, sinh năm 1985. Nơi cư trú: Đội x, xã Â N, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
Anh Bùi Văn L, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Xóm N, xã Â N, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
Ông Bùi Văn T, sinh năm 1960. Nơi cư trú: Xóm T, xã Â N, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
Anh Bùi Văn S, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Xóm T, xã Â N, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 19 giờ 50 phút, ngày 25/02/2019 tại xóm T, xã Â N, huyện L, tỉnh Hòa Bình, Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn phối hợp với Công an xã Â N phát hiện và bắt quả tang Bùi Văn T đang tàng trữ trong người, tại túi quần bên phải bị cáo đang mặc có 05 gói chất bột dạng cục, màu trắng. Bị cáo khai là chất ma túy mua được từ một người đàn ông không quen biết sáng ngày 25/02/2019 tại xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình với giá 2.300.000 đồng về nhà chia nhỏ thành 11 gói, số còn lại vẫn để trong túi nilon. Bị cáo mang theo người 05 gói để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang.
Qua khám xét tại nơi ở của Bùi Văn T tại xóm T, xã Â N, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Cơ quan điều tra phát hiện một gói nilon và 06 gói giấy bên trong chứa chất bột dạng cục, màu trắng bị cáo khai là chất ma túy.
Tang vật thu giữ được tại giai đoạn điều tra gồm: 01 gói nilon, 11 gói giấy chứa chất bột dạng cục, màu trắng được đựng trong hai phong bì ghi tên đối tượng Bùi Văn T; một phong bì quả tang và 01 phong bì khám xét.
Theo kết luận giám định số 42/KLGĐ-CAT-PC09, ngày 02/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình thì chất bột dạng cục thu giữ từ Bùi Văn T là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 6,88g (Sáu phẩy tám mươi tám gam). Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, số thứ tự: 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Tại Bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 10/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình, Cơ quan điều tra không xác định được nhân dạng, căn cước nên không có căn cứ xem xét, xử lý.
Tại phiên tòa:
Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung quyết định truy tố, tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số và ông nội bị cáo là người có công với Nhà nước theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo do bị cáo là người không có điều kiện về kinh tế. Về vật chứng của vụ án: đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình; không có ý kiến gì về nội dung cáo trạng phản ánh; không kêu oan. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không có khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.
[2] Về căn cứ xác định tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo: Ngày 25/02/2019, bị cáo Bùi Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; đã mang theo người 05 gói Heroine, tàng trữ tại nhà ở 06 gói giấy và 01 gói nilon chứa Heroine, tổng trọng lượng là 6,88g (Sáu phẩy tám mươi tám gam) Heroine mà không nhằm mục đích vận chuyển, mua bán, sản xuất trái phép chất ma túy.
Hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Loại ma túy bị cáo tàng trữ là Heroine có khối lượng nằm trong khoảng từ 05 gam đến dưới 30 gam. Do vậy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh, điều khoản luật áp dụng là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo: Tội phạm mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất gây nghiện của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Bản thân bị cáo là người có nhận thức xã hội, có hiểu biết pháp luật, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng lại nghiện chất ma túy, không từ bỏ được ma túy. Ma túy không chỉ làm hại chính bản thân bị cáo về sức khỏe, tài chính mà còn là hiểm họa của xã hội, là nguyên nhân gây suy kiệt giống nòi và là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác. Do vậy, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích và để phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Ngoài ra, xét bị cáo là người dân tộc thiểu số, ông nội bị cáo là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3. Đây là những tình tiết Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo là người có thu nhập không ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng của vụ án: Vật chứng là 01 phong bì niêm phong là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình bên trong chứa các chất ma túy là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính ngày tạm giữ 25/02/2019.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mẫu giám định ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình có số 34 ngày 26/02/2019, ghi tên đối tượng Bùi Văn T, mép dán có dấu niêm phong, bên trong chứa 12 mẫu chất ma túy loại Heroine có tổng khối lượng 4,47g còn lại sau giám định;
(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng và Phiếu nhập kho số NK 012 ngày 13/5/2019).
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Bùi Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 12/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 12/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về