Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 26/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 3 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương  xét  xử  công  khai  vụ  án  hôn  nhân  và  gia  đình  sơ  thẩm  thụ  lý  số 180/2019/TLST- HNGĐ ngày 27/02/2019 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị T, sinh năm 1986; thường trú: Thôn T, xã Q, thị xã B, tỉnh Q; tạm trú: 6A/2/16, khu phố Đ, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1982; thường trú: Ấp 2, xã B, huyện L, tỉnh Đ; tạm trú: 6A/2/16, khu phố Đ, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 04 tháng 01 năm 2019, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phan Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị T và ông Nguyễn Trung T tự nguyện tìm hiểu,có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh Đ vào ngày 25 tháng 02 năm 2016, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 20/2016. Sau khi kết hôn, bà T và ông T sinh sống tại địa chỉ tại địa chỉ 6A/2/16, khu phố Đ, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau một khoảng thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thườngxảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau. Ông T có đánh bà T 2 lần, ông T nhiều lần chửi bới đuổi bà T ra khỏi nhà nên từ ngày 13/8/2018 bà T đưa con ra ngoài địa chỉ khác sinh sống. Vợ chồng đã ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian ly thân ông T có đến gặp bà T 02 lần để hàn gắn tình cảm nhưng vợ chồng không nói chuyện được với nhau, nếu có nói thì cũng chỉ cãi nhau vì không cùng quan điểm sống. Nay bà T nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là tên Nguyễn Phan Thanh H, sinh ngày 15/11/2016. Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Phan Thanh H, sinh ngày 15/11/2016. Bà T không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai ngày 05/3/2019 và tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Trung T trình bày: T và bà T tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh Đ vào ngày 25 tháng 02 năm 2016, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 20/2016. Trong quá trình chung sống ông T, bà T cũng có phát sinh mâu thuẫn nhưng không trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do bà T chê ông T và gia đình ông T nghèo khó, công ty bà T đang có kế hoạch cho bà T đi nước Nhật làm việc nên bà T cương quyết ly hôn với ông Tấn. Ông T và bà T đã ly thân từ ngày 13/8/2018 đến nay. Trong thời gian ly thân ông T nhiều lần đến gặp bà T để cố gắn hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà T không đồng ý. Ông T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa trầm trọng nên không đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của bà T.

Về con chung: Ông T, bà T có 01 con chung tên Nguyễn Phan Thanh H, sinh ngày 15/11/2016. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ông T, bà T ly hôn thì ông T đồng ý để bà T được trực tiếp nuôi con chung . Ông T không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

-  kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng.

-   kiến về việc giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết qủa tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng:

Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà Phan Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Trung T, yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên tên Nguyễn Phan Thanh H, sinh ngày 15/11/2016 nên quan hệ pháp luật trong vụ án này được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Trung T có đăng ký tạm trú tại số nhà 6A/2/16, khu phố Đ, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về nội dung:

Xét về quan hệ hôn nhân giữa bà Phan Thị T và ông Nguyễn Trung T được xác lập trên cơ sở tự nguyện vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh Đ vào ngày 25 tháng 02 năm 2016, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 20/2016 là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà, nguyên đơn bà Phan Thị T xác định sau khi chung sống với nhau hạnh phúc được một khoảng thời gian thì bà T và ông T phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau. Ông T có đánh bà T 2 lần và nhiều lần chửi bới đuổi bà T ra khỏi nhà, ngày 13/8/2018 bà T đưa con ra ngoài địa chỉ khác sinh sống nên vợ chồng đã sống ly thân từ đó đế nay. Trong thời gian ly thân ông T có đến gặp bà T 02 lần để hàn gắn tình cảm nhưng vợ chồng không nói chuyện được với nhau, nếu có nói thì cũng chỉ cãi nhau vì không cùng quan điểm sống. Hiện nay nguyên đơn xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với ông ông T.

Bị đơn ông Nguyễn Trung T cũng thừa nhận trong quá trình chung sống vợ chồng ông T và bà T có mâu thuẫn, nguyên nhân vì bà T chê ông T và gia đình ông Tnghèo khó, ngoài ra công  ty bà T đang có kế hoạch cho bà T đi nước Nhật làm việc nên bà T cương quyết ly hôn với ông T. Ông T và bà T đã sống ly thân từ ngày tháng8/2016 đến nay. Trong thời gian ly thân ông T đã nhiều lần đến gặp bà T để cố gắn hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà T không đồng ý. Bị đơn không đồng ý ly hôn với nguyên đơn bà T vì cho rằng mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng chỉ tồn tại bền vững dựa trên tình cảm thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và khi có những bất đồng trong quan hệ vợ chồng thì người vợ và người chồng phải cùng nhau tích cực hàn gắn, xóa bỏ những mâu thuẫn, duy trì tình cảm tốt đẹp của vợ chồng. Nhưng quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc, nguyên đơn và bị đơn đều xác định có mâu thuẫn, cãi nhau, ông T đánh bà T 02 lần, ông T và bà T đã sống ly thân từ tháng 8/2018 cho đến nay, mỗi người có một cuộc sống riêng, ông T có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm gia đình nhưng bà T không đồng ý vì vợ chồng không có cùng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Do tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về việc yêu cầu được ly hôn với ông Tấn.

Về con chung: Quá trình chung sống bà T và ông T có 01 người con chung tên Nguyễn Phan Thanh H, sinh ngày 15/11/2016. Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Phan Thanh H, sinh ngày 15/11/2016. Bà T không yêu cầu ông Tấn cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, cháu H chưa đủ 36 tháng tuổi, hiện nay do bà T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và được đảm bảo tốt trong cuộc sống. Do đó, việc bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Phan Thanh H, sinh ngày 15/11/2016 là phù hợp nên chấp nhận. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Bà Phan Thị T và ông Nguyễn Trung T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét. kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82,  Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị T đối với bị đơn ông Nguyễn Trung T về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị T được ly hôn ông Nguyễn Trung T.

- Về con chung: Bà Phan Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Phan Thanh H, sinh ngày 15/11/2016.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Phan Thị T về việc không yêu cầu ông Nguyễn Trung T cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Phan Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0024931 ngày 22 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 26/03/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về