Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 17/09/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương – tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 68/2019/TLST-HNGĐ ngày 26/03/2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình: “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 12/07/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19/08/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Kơ Jong L, sinh năm 1981;

Trú tại: Thôn KT – TK – ĐT– Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Anh Ja CH, sinh năm 1984;

Nơi cư trú cuối cùng: Thôn KT – TK – ĐT– Lâm Đồng.

(Chị Kơ Jong L có mặt, anh Ja CH vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2018, bản tự khai ngày 22/03/2019 và lời khai tại phiên tòa – nguyên đơn chị Kơ Jong L trình bày: Chị Kơ Jong L và anh Ja CH tìm hiểu và kết hôn với nhau vào năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tu Tra – Đơn Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 107 Quyển số I/2005 ngày 06/03/2006, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện.

Sau khi kết hôn đôi bên chung sống với nhau tại thôn Ma Đanh, xã Tu Tra, Đơn Dương, Lâm Đồng. Trong quá trình chung sống giữa đôi bên thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do đôi bên bất đồng quan điểm sống, không hòa hợp được với nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống hằng ngày, từ đó dẫn đến đôi bên có lời qua tiếng lại, đánh đập và xúc phạm lẫn nhau, nhiều lần như thế khiến chị L không thể chịu đựng được. Đến năm 2010 anh Ja CH tự ý bỏ đi khỏi địa phương, không biết đi đâu, làm gì, chị L cũng đã tìm mọi cách để liên lạc nhưng cũng không biết anh Ja CH ở đâu, không có tin tức gì nên vào năm 2018 chị L đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương giải quyết việc dân sự “Yêu cầu tuyên bố một người mất tích” đối với anh Ja CH, và đã được giải quyết theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 06/2018/QVDS-ST ngày 27/12/2018. Theo đó Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã tuyên bố anh Ja CH mất tích khỏi địa phương từ tháng 05/2010. Nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nữa chị Kơ Jong L yêu cầu được ly hôn với anh Ja CH.

- Về con chung: Chị Kơ Jong L xác nhận trong quá trình chung sống giữa chị và anh Ja CH có 02 con chung là các cháu Kơ Jong B, sinh ngày 05/08/2004 và Kơ Jong X, sinh ngày 03/09/2005, hiện nay các cháu đang sống chung với chị L. Nguyện vọng của chị Kơ Jong L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu anh Ja CH cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Kơ Jong L xác nhận trong quá trình chung sống giữa chị và anh Ja CH không có tài sản chung và nợ chung nên không đề cập đến.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng anh Ja CH đều vắng mặt. Đồng thời, vào ngày 21/05/2019 chị Kơ Jong L có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn chị Kơ Jong L vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh Ja CH.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử từ khi thụ lý cho đến thời điểm xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng thì nguyên đơn thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Kơ Jong L, cho chị Kơ Jong L và anh Ja CH được ly hôn với nhau; Về con chung: giao 02 con chung Kơ Jong B, sinh ngày 05/08/2004 và Kơ Jong X, sinh ngày 03/09/2005 cho chị Kơ Jong L được trực tiếp nuôi dưỡng, tài sản chung và nợ chung không có nên không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa của nguyên đơn, quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương về nội dung vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Đây là vụ án “Xin ly hôn” giữa nguyên đơn chị Kơ Jong L và bị đơn anh Ja CH. Anh Ja CH có nơi cư trú cuối cùng tại: Thôn KT – TK – ĐT – Lâm Đồng, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 35; Khoản 3 Điều 36; Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Việc bị đơn anh Ja CH vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai theo đúng quy định tại các Điều 175, 177, 179 của Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015. Vì vậy, theo quy định tại các Điều 227, 228, 273 của Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án và giành quyền kháng cáo vắng mặt cho anh Ja CH là đủ.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Kơ Jong L và anh Ja CH tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào năm 2006 tại Uỷ ban nhân dân xã Tu Tra – Đơn Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 107 Quyển số I/2005 ngày 06/03/2006.

Trong quá trình chung sống giữa đôi bên thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không hòa hợp được với nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống hằng ngày, từ đó dẫn đến đôi bên có lời qua tiếng lại, đánh đập và xúc phạm lẫn nhau, nhiều lần như thế khiến chị L không thể chịu đựng được. Đến năm 2010 anh Ja CH tự ý bỏ đi khỏi địa phương, không biết đi đâu, làm gì, chị L cũng đã tìm mọi cách để liên lạc nhưng cũng không biết anh Ja CH ở đâu, không có tin tức gì nên vào năm 2018 chị L đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương giải quyết việc dân sự “Yêu cầu tuyên bố một người mất tích” đối với anh Ja CH, và đã được giải quyết theo Quyết định giải quyết việc dân sự số 06/2018/QĐVDS-ST ngày 27/12/2018. Theo đó Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã tuyên bố anh Ja CH mất tích khỏi địa phương từ tháng 05/2010. Nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nữa chị Kơ Jong L yêu cầu được ly hôn với anh Ja CH.

Phía anh Ja CH vắng mặt nhưng trong quá trình Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành triệu tập anh Ja CH nhưng anh Ja CH đều không đến, không hợp tác, không có thiện chí mong muốn đoàn tụ. Tại phiên tòa hôm nay chị Kơ Jong L vẫn cương quyết xin được ly hôn với anh Ja CH. Chứng tỏ mâu thuẫn giữa đôi bên đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu có níu kéo để hai bên về chung sống lại cũng không hạnh phúc. Nên cho hai bên được ly hôn là phù hợp với thực tế và phù hợp với điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Ti phiên tòa hôm nay, chị Kơ Jong L vẫn giữ nguyên yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Kơ Jong B, sinh ngày 05/08/2004 và Kơ Jong X, sinh ngày 03/09/2005.

Quá trình làm việc và hòa giải tại Tòa án, đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh Ja CH đến để làm việc nhưng anh Ja CH không hợp tác cũng không có thiện chí mong muốn được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Để ổn định cuộc sống của cháu, đảm bảo cho các cháu phát triển về mặt tâm sinh lý cũng như phù hợp với nguyện vọng của cháu theo Biên bản lấy lời khai ngày 20/05/2019, Hội đồng xét xử nhận thấy giao 02 con chung Kơ Jong B, sinh ngày 05/08/2004 và Kơ Jong X, sinh ngày 03/09/2005 cho chị Kơ Jong L được trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ja CH không phải cấp dưỡng nuôi con chung là hoàn toàn phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về tài sản chung và nợ chung: Tại phiên tòa hôm nay chị Kơ Jong L vẫn giữ nguyên ý kiến xác nhận trong quá trình chung sống giữa chị và anh Ja CH không có tài sản chung và nợ chung nên không đề cập đến.

[3] Về án phí: Chị Kơ Jong L thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí theo quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Đồng thời, ngày 20/03/2019 chị L có đơn xin được miễn toàn bộ tiền án phí. Do đó, miễn cho chị Kơ Jong L toàn bộ tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Anh Ja CH không phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Anh Ja CH không phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 35; Khoản 3 Điều 36; Khoản 1 Điều 39; Điều 175, 177, 179, 219, 220, 227, 228, 235, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Áp dụng Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Kơ Jong L.

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Kơ Jong L và anh Ja CH.

Về con chung: Giao 02 con chung Kơ Jong B, sinh ngày 05/08/2004 và Kơ Jong X, sinh ngày 03/09/2005 cho chị Kơ Jong L trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Ja CH không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về án phí: Chị Kơ Jong L và anh Ja CH không phải chịu tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ để yêu cầu tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để xét xử phúc thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2014”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 17/09/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về