Bản án 12/2018/HS-ST ngày 29/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 12/2018/HS-ST NGÀY 29/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 01 năm 2018 tại Hội trường xét xử số 2 – Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:214/2017/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2018/QĐXXST-HS ngày17 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Văn K - Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 30 tháng 5 năm 1983, tại Cẩm Phả, Quảng Ninh; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 4, khu B, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn H và bà Vũ Thị N; Vợ, con: Chưa; Tiền án,tiền sự: Chưa; Nhân thân: Ngày 23.5.2001, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 60 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Ngày 01.2.2008, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 08 năm tù về các tội “Bắt người trái pháp luật” và “Cướp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04.6.2013 và xong phần thi hành án dân sự; Bị bắt ngày 19.10.2017, tạm giữ đến ngày 27.10.2017 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” - Có mặt tại phiên tòa.

Những người làm chứng:

- Anh Vũ Ngọc T; Nơi ĐKNKTT: Tổ 1, khu D, phường T, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh - Vắng mặt.

- Anh Hoàng Văn O; Nơi ĐKNKTT: Tổ 3, khu Đ, phường T, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ ngày 19/10/2017, tại khu vực thuộc tổ 5, khu Đ, phường T, thành phố Cẩm Phả, Công an phường B phối hợp với đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Cẩm Phả kiểm tra 01 xe mô tô do một người không rõ lai lịch điều khiển, sau xe chở Đặng Văn K. Thấy Công an kiểm tra, K nhảy xuống xe bỏ chạy, nhưng bị Công an bắt giữ, người điều khiển xe mô tô cũng bỏ chạy. Qua kiểm tra phát hiện Đặng Văn K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ của K: 01 vỏ bơm tiêm, bên trong có 03 gói giấy bạc mầu trắng và 01 túi nilon đều chứa chất bột mầu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone mầu đen lắp sim số 01638490340; 2.440.000 đồng; 01 chứng minh thư nhân dân và 01 thẻ bảo hiểm y tế đều mang tên Đặng Văn K.

Tại Bản kết luận giám định số 669/GĐMT ngày 21/10/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất bột màu trắng trong 03 gói giấy và 01 túi nilon thu giữ của Đặng Văn K là chất ma túy, loại Heroine, tổng trọng lượng 0,48g.

Quá trình điều tra, Đặng Văn K khai: Do nghiện ma túy nên khoảng 14h ngày 19/10/2017, K điện thoại cho Q (là bạn nghiện xã hội, mới quen khoảng 3 tháng nay) hỏi chỗ mua ma túy Heroine để sử dụng, Q hẹn K lên đầu đường Thanh Niên, Q dẫn đi mua. Khi đến chỗ hẹn, K đưa cho Q 1.000.000 đồng, Q chở K đến ngõ cạnh Tòa nhà vàng phường T và bảo K chờ ở đầu ngõ, rồi Q đi đâu K không biết. 15 phút sau, Q quay lại đưa cho K 01 túi nilon và 03 gói giấy bạc đều chứa ma túy Heroine. K cầm ma túy rồi lên xe Q chở về. Khi đi được khoảng 50m, thì bị Công an dừng xe kiểm tra, K nhảy xuống xe bỏ chạy, thì bị Công an bắt giữ và thu giữ vật chứng. Q cũng phóng xe bỏ chạy.

Tại bản cáo trạng số: 05/KSĐT - HS ngày 19/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Đặng Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tiếp tục đưa ra các chứng cứ chứng minh cho hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đặng Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” như nội dung bản cáo trạng, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đặng Văn K từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù, và xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đều thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Do nghiện ma túy nên K đã đưa cho Q (là bạn nghiện xã hội, mới quen khoảng 3 tháng nay) 1.000.000 đồng để nhờ Q mua hộ ma túy để sử dụng. Q đi khoảng 15 phút thì quay lại đưa cho K 01 túi nilon và 03 gói giấy bạc đều chứa ma túy Heroine, tổng trọng lượng 0,48g. K cầm ma túy rồi lên xe Q chở về. Khi đi được khoảng 50m, thì bị Công an dừng xe kiểm tra, K nhảy xuống xe bỏ chạy, thì bị Công an bắt giữ và thu giữ vật chứng. Hành vi của Đặng Văn K đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Đặng Văn K theo tội danh và điều khoản luật áp dụng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương, bị cáo là người có hiểu biết về pháp luật và tác hại của ma tuý nhưng do ý thức chấp hành pháp luật kém dẫn bị cáo vào con đường phạm tội, hành vi bị cáo thực hiện đã tiếp tay cho các đối tượng mua bán trái phép chất ma tuý, là cầu nối làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 23.5.2001, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 60 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và ngày 01.2.2008, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 08 năm tù về các tội “Bắt người trái pháp luật” và “Cướp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/6/2013 nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện cho bản thân. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 BLHS. Nhưng dù có xem xét giảm nhẹ đến đâu cũng thấy cần thiết phải bắt bị cáo cách ly xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Hành vi của bị cáo Đặng Văn K đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Do BLHS năm 2015 đã có hiệu lực pháp luật, tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 BLHS 2015 nhẹ hơn so với tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự. Áp dụng những tình tiết có lợi cho bị cáo nên tội phạm và hình phạt của bị cáo K được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 249 BLHS năm 2015, thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm lưu hành và 01 vỏ bơm tiêm hết giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại thu giữ của bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Số tiền 2.440.000 đồng thu của bị cáo và 01 chứng minh thư nhân dân và 01 thẻ bảo hiểm y tế là giấy tờ tùy thân của bị cáo quá trình điều tra xác định không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[5] Đối với người tên Q, theo K khai là người đã chở và mua ma túy hộ K, do K không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có cơ sở để xác minh làm rõ. [6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào khoản 1 điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Đặng Văn K 15 (mười lăm) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ đi những ngày đã bị tạm giữ từ ngày 19/10/2017 đến ngày 27/10/2017.

[2] Về vật chứng: Căn cứ vào các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì chứa mẫu vật niêm phong số 669/GĐMT; và 01 vỏ bơm tiêm hết giá trị sử dụng.

Tịch thu phát mại, sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone kèm 01 sim, 01 pin.

Trả lại cho bị cáo số tiền 2.440.000đ (Hai triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng chẵn); 01 chứng minh thư nhân dân và 01 thẻ bảo hiểm y tế đều mang tên Đặng Văn K.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Đặng Văn K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

 [4] Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HS-ST ngày 29/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về