Bản án 12/2018/HNGĐ-ST ngày 31/05/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 12/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 31 tháng 5 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 11/2017/TLST-HNGĐ ngày 16/10/2017 về việc Xin ly hôn. Theo quyết định xét xử số 11/2018/QĐST-ST ngày 02/4/2018 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Cầm Thị D, sinh năm 1995; Trú tại: Bản N, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La.

2. Bị đơn: Anh Lò Văn L, sinh năm 1992; Trú tại: Bản N, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La. Hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Yên Hạ, Tổng cục VIII, Bộ Công an.

Các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, và bản tự khai và quá trình tố tụng tại Tòa án chị Cầm Thị D trình bày: Chị và anh Lò Văn L tự nguyện kết hôn vào tháng 6/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn,tỉnh Sơn La, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với bố mẹ anh L tại bản N, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do anh L không chăm lo cuộc sống gia đình và thường xuyên lang thang rượu chè, cờ bạc, không chịu lao động giúp đỡ gia đình, vợ con. Khi được vợ khuyên bảo thì lại quay ra hành hạ, đánh đập vợ, đến ngày 20/10/2013 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Chiềng Nơi, Mai Sơn, được khoảng 10 ngày thì anh L đến gia đình bố mẹ chị xin lỗi và hứa sửa chữa khuyết điểm. Sau khi được anh L xin lỗi chị đã quay về nhà bố mẹ chồng, tuy nhiên anh L vẫn không thay đổi mà càng ngày càng lao sâu vào con đường cờ bạc, rượu chè và đánh đập vợ; Sau đó anh L đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 15 năm tù về tội Giết người. Chị xác nhận tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Vợ chồng anh chị có một con chung là Lò Thị Kim N, sinh 02/12/2014, nếu ly hôn chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng. Về tài sản chung, vay nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các bản tự khai ngày 30/3/2018 anh Lò Văn L trình bày: Anh và chị D tự nguyện kết hôn vào tháng 6/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn,tỉnh Sơn La, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, do anh đã vi phạm pháp luật bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 15 năm tù. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có một con chung là Lò Thị Kim N, sinh 02/12/2014; sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung với bố mẹ, nên chưa có tài sản chung.

Nay chị Cầm Thị D xin ly hôn bản thân anh thấy tình cảm của anh đối với vợ vẫn còn nên anh mong muốn được đoàn tụ. Nếu phải ly hôn anh đề nghị được nuôi con Lò Thị Kim N ( trước mắt giao con cho bố mẹ anh trực tiếp nuôi dưỡng).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, thư ký đã tuân theo pháp luật tố tụng; quá trình xét xử Hội đồng xét xử đã tuân thủ quy định của Luật tố tụng về các thủ tục. Các đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật từ thời điểm thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên tòa. Đối với việc nguyên đơn, bị đơn đều có đơn xin giải quyết vắng mặt, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên chấp nhận theo quy định khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Cầm Thị D được ly hôn anh Lò Văn L giao cháu Lò Thị Kim N cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc, giáo dục.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền, về tố tụng: Bị đơn anh Lò Văn L sinh sống tại bản N, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La, hiện nay đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Yên Hạ, Tổng cục VIII, Bộ Công an ( đóng tại Phù Yên, Sơn La ), chị Cầm Thị D khởi kiện vụ án Xin ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, do vậy Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La thụ lý, giải quyết là đảm bảo quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đều đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, việc Tòa án đưa vụ án ra xét xử là đảm bảo theo quy định tại khoản 1Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Cầm Thị D và anh Lò Văn L kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Chiềng Nơi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La vào ngày 08/7/2013, nên xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Cầm Thị D và anh Lò Văn L là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do anh L không chăm lo cuộc sống gia đình và thường xuyên lang thang rượu chè, cờ bạc, không chịu lao động giúp đỡ gia đình, vợ con. Khi được vợ khuyên bảo thì lại quay ra hành hạ, đánh đập vợ. Đã có thời gian chị D bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống. Mặt khác hiện nay anh L đang phải chấp hành hình phạt của bản án 15 năm tù. Xét thấy tình trạng hôn nhân của anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân để xây dựng gia đình hạnh phúc không đạt được. Việc quyết định cho anh chị ly hôn là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Theo nguyện vọng của hai anh chị, anh chị đều muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con, hiện nay anh L đang phải chấp hành hình phạt tù và có ý kiến giao cháu Lò Thị Kim N cho bố mẹ anh nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay cháu Lò Thị Kim N còn nhỏ nên cần phải giao cho chị Cầm Thị D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

[4] Về tài sản: Các đương sự đều khai nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt vấn đề giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Cầm Thị D phải chịu toàn bộ án phí xin ly hôn.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39; khoản 4 Điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 53; 81,82 và 83 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Cầm Thị D đối với anh Lò Văn L.

Chị Cầm Thị D được ly hôn anh Lò Văn L.

2. Về con chung: Giao cháu Lò Thị Kim N, sinh ngày 02/12/2014 cho chị Cầm Thị D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi Lò Thị Kim N đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Anh Lò Văn L không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị D nhưng được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; các đương sự quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; đề nghị cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Các đương sự đều khai nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt vấn đề giải quyết.

4. Về án phí: Chị Cầm Thị D phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số AA/2013/04395 ngày 16 tháng 10 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Chị Cầm Thị D đã nộp đủ án phí.

Các đương có quyền kháng cáo trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 12/2018/HNGĐ-ST ngày 31/05/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:12/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về