Bản án 121/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 121/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 04 năm 2021, tại h ội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 111/2021/TLST-HS ngay 18 tháng 03 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 04 năm 2021 đôi vơi bi cao:

Họ và tên: Ngọc Văn B, Tên gọi khác: Không; Ngày sinh: 23/07/1993; Nơi cư trú: B Luông, xã P C, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội: (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Họ và tên bố: Ngọc Văn S, sinh năm 1962; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1966; Vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1993; Con: có 2 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2015. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình.

Tiền án: 01

+ Tại B án số 51/2016/HSST ngày 09/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt 06 tháng 09 ngày tù về tội đánh bạc, phạt bổ sung 3.000.000 đồng. Đến nay chưa nộp án phí HSST và tiền phạt.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 64234/ QĐ- XPHC ngày 21/5/2019 của Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau” . Đã nộp phạt xong ngày 22/5/2019.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02/01/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên, (có mặt tại phiên tòa)

Người làm chứng:

- Anh Phan Văn Q, sinh năm 1990 (vắng mặt) Nơi thường trú: Xóm N D, xã L , huyện N R, tỉnh Bắc Kan

 

- Anh Bùi Bùi T, sinh năm 2002 (vắng mặt) Nơi thường trú: Tổ 15, phường H S, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên

Ngưi chứng kiến: Ông Phạm Đình T, sinh năm 1953 Địa chỉ: Tổ 2, phường T T, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 00 phút ngày 02/01/2021, tổ công tác Công an phường Trung T, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực đường phố Hương thuộc tổ 11 của phường thì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân báo tin đang giữ 01 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra đối với nam thanh niên trên thì người này khai tên là Ngọc Văn B, đồng thời B khai nhận đang cất giấu ma túy trên người và tự giác lấy từ túi áo ngực phía trước bên trái B đang mặc ra 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn, bên trong có chứa 02 túi nilon màu trắng, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng giao nộp cho tổ công tác. B khai đó là ma túy tổng hợp do B mua để đem đi bán kiếm lời. Tổ công tác đã tiến hành lập biên B bắt người phạm tội quả tang đối với B, niêm phong vật chứng thu giữ theo quy định và đưa B về trụ sở Công an để làm rõ.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong và cân xác định khối lượng chất tinh thể màu trắng thu giữ của B có tổng khối lượng là 1,763 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định trong bì niêm phong (Kí hiệu T). Tại B Kết luận giám định số 179/KL- KTHS ngày 11/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Ngọc Văn B trong bì niêm phong T là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng là 1,763 gam.

Tại cơ quan CSĐT Công an thành phố Thái Nguyên, Ngọc Văn B đã khai nhận: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 02/01/2021, B đi taxi từ nhà đến khu vực cầu vượt Đán, thành phố Thái Nguyên để tìm mua ma túy bán lại kiếm lời. Tại đây, B gặp và mua của 01 người đàn ông tên Mạnh (không rõ nhân thân, lai lịch) 02 gói Kentamine được gói bằng túi niloong màu trắng với số tiền là 3.700.000 đồng. B mang 02 gói ma túy vừa mua được tiếp tục đi taxi đến trước cửa quán Karaoke 186 thuộc khu vực tổ 11 phường Trung T, thành phố Thái Nguyên để bán cho khách nhưng chưa kịp bán thì bị quần chúng nhân dân giữ lại.

Lời khai nhận tội của Ngọc Văn B phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên B bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến cùng các tài liệu chứng cứ khác mà cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu T bên trong chứa ma túy (Mẫu hoàn lại sau giám định); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

B cáo trạng số 109 /CT-VKSPB, ngày 16-03-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Ngọc Văn B về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Ngọc Văn B thành khẩn khai báo về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

Tuyên bố: Bị cáo Ngọc Văn B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Áp dụng: khoản 1,khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình; điểm s khoản 1 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt:Ngọc Văn B từ 30 đến 36 tháng tù. Phạt bổ sung bị cáo từ từ 5 đến 7 triệu đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T bên trong có chứa ma túy Kentamine mẫu hoàn lại sau giám định.

- Trả cho Ngọc Văn B 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel tuy nhiên tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo B án theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, của Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, lời khai nhận tội của bị cáo đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố và phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ, biên B bắt quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để khẳng định: Vào hồi 19 giờ 00 phút ngày 02/01/2021 tại khu vực đường phố Hương thuộc tổ 11, phường Trung T, thành phố Thái Nguyên, Ngọc Văn B đã có hành vi cất giấu 1,763 gam Ketamine mục đích để bán kiếm lời thì bị tổ Công tác của Công an phường Trung T, thành phố Thái Nguyên phát hiện, lập biên B bắt người phạm tội quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Ngọc Văn B phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Nội dung của khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định:

1. “Người nào … mua bán trái phép chất ma túy …, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước ta về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương, còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác và tệ nạn xã hội,.... Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật hình sự nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Về nhân thân: Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau vào năm 2019.

Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử thấy việc bị cáo phạm tội với mục đích thu lời bất chính, do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền để sung quỹ Nhà nước đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử xử lý vật chứng như sau:

Đối với vật chứng là 01 Bì niêm phong ký hiệu T, có ghi hoàn trả 1,736 gam mẫu T còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu T; 01 Vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel thu giữ của bị cáo cần trả lại cho bị cáo Ngọc Văn B, tuy nhiên tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

[6] Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, B khai mua của một người đàn ông không quen biết, không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội về tội danh, mức hình phạt chính, xử lý vật chứng vụ án là phù hợp với quy định của Pháp luật cần chấp nhận.

[8] Về bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Căn cứ vào Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm giam bị cáo Ngọc Văn B với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 2015 cần buộc bị cáo phải chịu một khoản án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ, pháp luật áp dụng:

- Khoản 1, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015;

- Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngọc Văn B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt chính và hình phạt bổ sung:

Xử phạt Ngọc Văn B 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-01-2021.

Phạt bổ sung (phạt tiền) bị cáo Ngọc Văn B 5.000.000đ (Năm triệu đồng), nộp sung công quỹ Nhà nước.

3. Về bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Ra Quyết định tạm giam bị cáo Ngọc Văn B với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

4. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 Bì niêm phong ký hiệu T, có ghi hoàn trả 1,736 gam mẫu T còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu T; 01 Vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Sài Gòn.

- Trả lại cho bị cáo Ngọc Văn B 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng, Số IMEI-1; 355767049574267; Số IMEI-2: 355767049574275, tuy nhiên cần giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên B giao nhận vật chứng số 237 ngày 04/03/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra của Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Ngọc Văn B phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

6. Thông báo quyền kháng cáo: Bị cáo Ngọc Văn B có quyền kháng cáo B án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về