TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 121/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 27/11/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 137/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 132/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Lê Anh Q– Tên gọi khác: Q L, sinh năm 1983, tại tỉnh Đồng Nai.
Nơi cư trú: Ấp T L 1, xã P T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L, sinh năm 1949 và bà Lê Thị C, sinh năm 1953; vợ: Lại Thị Kim H, sinh năm 1989; có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 24/8/2019 đến ngày 27/8/2019. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
2. Lê Chí C, sinh năm 1977, tại tỉnh Đồng Nai.
Nơi cư trú: Khu X, thị trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Phước N, sinh năm 1955 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1955; vợ: Phạm Thị Mai D, sinh năm 1984; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; bị tạm giữ từ ngày 24/8/2019 đến ngày 27/8/2019. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
3. Đặng P, sinh năm 1964, tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nơi cư trú: Ấp H N, thị trấn Đ Q, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng T (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); vợ: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1965; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 20003 con, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 19937; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19/6/2015, Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xử phạt 6.000.000 đồng về tội đánh bạc; bị tạm giữ từ ngày 24/8/2019 đến ngày 27/8/2019. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
4. Trần Minh Nhật B– Tên gọi khác: M, sinh năm 1984, tại tỉnh Đồng Nai.
Nơi cư trú: Ấp H T 2, thị trấn Đ Q, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Q Đ (đã chết) và bà Trịnh Thị B, sinh năm 1960; vợ, con: Không; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18/02/2016, Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xử phạt 5.000.000 đồng về tội Đánh bạc; bị tạm giữ từ ngày 24/8/2019 đến ngày 27/8/2019. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Hồng D, sinh năm 1974, địa chỉ: Ấp Thanh Thọ 3, xã Phú Lâm, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).
- Người làm chứng:
+ Trần Đình T, sinh năm 1960 (vắng mặt);
+ Trần Quốc D, sinh năm 1991 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp T L 1, xã P T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 24/8/2019, tại quán cà phê Family thuộc Khu 4, thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú lập biên B bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Anh Q, Đặng P, Lê Chí C và Trần Minh Nhật B đang có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức chơi lắc bầu cua.
Tang vật thu giữ:
- Số tiền thu tại chiếu bạc là 570.000 đồng, 52 lá bài tây đã qua sử dụng, 03 tờ giấy kích thước 40 x 60cm có in hình bầu, cua, tôm, cá, gà và nai, 01 bộ gồm: 01 gàu nhựa, 01 cái dĩa và 03 hột bầu cua.
- Thu trong người của Đặng P: 10.020.000 đồng.
- Thu trong người của Lê Chí C: 100.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Masstel màu vàng đồng.
- Thu trong người của Trần Minh Nhật B: 4.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng đồng.
Ngoài ra còn thu giữ của Trần Đình T, Trần Quốc D có mặt trong tụ điểm đánh bạc gồm:
- Thu trong người của Trần Đình T: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen.
- Thu trong người của Trần Quốc D: 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen. Ngày 27/8/2019, Trần Quốc D tự nguyện giao 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen – xám, biển số 60B4 – 638.01 là xe mô tô của Đặng P cầm cố cho Trần Đình T.
Quá trình điều tra đã làm rõ:
Khoảng 14 giờ ngày 24/8/2019, Lê Anh Q đến quán cà phê F thuộc Khu x, trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai thì gặp Đặng P, Trần Minh Nhật B, Lê Chí C và Trần Quốc D đang ngồi uống nước nên Q vào ngồi chung. Do cần tiền trả nợ nên Đặng P nói muốn cầm cố xe biển số 60B4 – 638.01 với số tiền 5.000.000 đồng thì Q nói với D đưa xe mô tô biển số 60B4 – 638.01 về cho Trần Đình T (cha D) để cầm cố. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, Trần Đình T cùng Trần Quốc D đến quán cà phê Family và đưa cho Đặng P số tiền 5.000.000 đồng tiền cầm cố xe. Sau đó, Lê Anh Qrủ cả nhóm chơi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức lắc bầu cua thì cả nhóm đồng ý, Q là người làm cái và trực tiếp lắc; Đặng P, Trần Minh Nhật B, Lê Chí C và một người tên Hùng (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) là người đặt cược; Trần Quốc D và Trần Đình T không tham gia mà chỉ ngồi xem.
Hình thức đánh bạc như sau: Lê Anh Q trải một tấm giấy kích thước 40 x 60 cm, trên mặt giấy có in hình “bầu, cua, tôm, cá, gà, nai”, để 03 hột “bầu cua” lên trên một đĩa nhựa, lấy gàu nước úp lên và lắc. Sau khi Q lắc xong thì Đặng P, Trần Minh Nhật B, Lê Chí C và H (chưa xác minh được nhân thân, lai lịch) tiến hành đặt cược, không đặt tiền mặt mà đặt bằng lá bài tây, quy ước 01 lá bài tây tương ứng 100.000 đồng. Khác với hình thức chơi lắc bầu cua thông thường là đặt trúng còn Q, P, B, C, H thỏa thuận hình thức chơi là đặt trật, cụ thể: Khi Q mở hộp bầu cua ra nếu ai đặt cược trùng với mặt ngửa hột bầu cua thì thua và phải trả cho Q 120.000 đồng/01 lá bài tây; nếu không đặt trúng thì thắng và Q phải trả cho người chơi số tiền 100.000 đồng/01 lá bài tây. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày thì Lê Anh Q, Đặng P, Trần Minh Nhật B và Lê Chí C bị Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú bắt quả tang cùng tang vật.
Số tiền của Lê Anh Q, Đặng P, Trần Minh Nhật B và Lê Chí C sử dụng vào mục đích đánh bạc như sau:
- Lê Anh Q khai nhận mang theo số tiền 1.500.000 đồng sử dụng vào mục đích đánh bạc và bị thua hết.
- Đặng P khai nhận mang theo số tiền 800.000 đồng và cầm xe mô tô biển số 60B4 – 638.01 cho Trần Đình T được 5.000.000 đồng, tổng số tiền 5.800.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc. Quá trình đánh bạc, P thắng được số tiền 4.220.000 đồng. Khi bị bắt quả tang thu giữ số tiền 10.020.000 đồng.
- Lê Chí C khai nhận mang theo số tiền 360.000 đồng nhưng dùng 50.000 đồng vào việc trả tiền uống nước, còn 310.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc, C thua hết 210.000 đồng. Khi bị bắt quả tang thu giữ 100.000 đồng.
- Trần Minh Nhật B mang theo số tiền 250.000 đồng tham gia đánh bạc và bị thua hết còn 4000 đồng. Khi bị bắt quả tang thu giữ của B số tiền 4.000 đồng.
Tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 570.000 đồng (thu trên chiếu bạc) + 10.124.000 đồng (thu trên người P, C, B được dùng vào mục đích đánh bạc) = 10.694.000 đồng. Tại B Cáo trạng số 124/CT-VKSTP-ĐN ngày 31/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố các bị cáo Lê Anh Q, Đặng P, Lê Chí C và Trần Minh Nhật B, về tội: “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Trên cơ sở phân tích dấu hiệu phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:
- Về tội danh: Các bị cáo Lê Anh Q, Đặng P, Lê Chí C và Trần Minh Nhật Bphạm tội: “Đánh bạc”.
- Về mức hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Q và bị cáo C, xử phạt:
Bị cáo Lê Anh Q, mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng; Bị cáo Đặng P, mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng;
Bị cáo Lê Chí C, mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng;
Bị cáo Trần Minh Nhật B, mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng;
- Về xử lý vật chứng:
Tịch thu sung công số tiền 10.694.000 đồng các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc.
Tịch thu tiêu hủy: 52 lá bài tây đã qua sử dụng, 03 tờ giấy kích thước 40 x 60 cm có in hình bầu, cua, tôm, cá, gà, nai; 01 bộ gồm: 01 gàu nhựa, 01 cái dĩa và 03 hột bầu cua vì không còn giá trị sử dụng.
Trả lại cho Trần Minh Nhật B 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đồng; trả lại cho Lê Chí C 01 điện thoại hiệu Masstel màu vàng đồng; trả lại cho Đặng P 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen – xám biển số 60B4 – 638.01.
Trả lại cho Trần Quốc D số tiền 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; trả lại cho Trần Đình T 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen vì đây là tài sản hợp pháp của D và T, không liên quan đến vụ án.
Đối với Nguyễn Thị Hồng D là chủ quán cà phê Family nơi các đối tượng thực hiện hành vi đánh bạc quá trình điều tra thể hiện việc đánh bạc của Lê Anh Q, Đặng P, Trần Minh Nhật B, Lê Chí C là tự phát, không được sự đồng ý của Diễm, thời điểm các đối tượng đánh bạc Diễm không có ở quán nên không đủ căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự.
Đối với đối tượng tên H là người tham gia đánh bạc, quá trình điều tra không xác minh được nhân thân, lai lịch, chỉ xác định được một số đặc điểm nhận dạng. Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Phú đã ra thông báo truy tìm đối tượng.
Đối với Trần Đình T: Không biết mục đích cầm cố xe mô tô biển số 60B4 – 638.01 của Đặng P là dùng vào mục đích đánh bạc nên không xử lý trách nhiệm hình sự. Đối với Trần Quốc D: Không tham gia đánh bạc nên không xử lý trách nhiệm hình sự.
- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nội dung lời khai của những người tham gia tố tụng trong hồ sơ vụ án:
- Lời khai của các bị cáo trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa: Các bị cáo thừa nhận nội dung của B cáo trạng là đúng sự thật; các bị cáo không có ý kiến tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
- Lời khai những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Hồng D: Bà là chủ quán cà phê F thuộc Khu x, trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Khoảng 12 giờ trưa ngày 24/8/2019, có Q và D đến quán cà phê của bà uống nước. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, do có việc nên bà gửi quán cho bạn trông coi. Việc các bị cáo đánh bạc tại quán của bà thì bà không biết vì khi đó bà không có mặt tại quán.
- Lời khai của người làm chứng anh Trần Quốc D: Khoảng 12 giờ trưa ngày 24/8/2019, anh và bị cáo Q đến quán cà phê F thuộc Khu x, trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai uống nước. Trong lúc uống nước, bị cáo P đến và đặt vấn đề muốn cầm cố xe mô tô với giá 5.000.000 đồng nên anh gọi điện cho ông T (cha anh) nói chuyện bị cáo P muốn cầm xe và ông T đồng ý nên anh đưa xe mô tô của bị cáo P về cho ông T xem. Sau đó, anh chở ông T đến quán cà phê và ông T đưa cho bị cáo P 5.000.000 đồng. Khi các bị cáo đang đánh bạc bằng hình thức bầu cua thì anh ngồi xem đến khi bị công an bắt.
- Lời khai của người làm chứng ông Trần Đình T: Chiều ngày 24/8/2019, ông đang ở nhà thì D (con trai ông) gọi điện nói bị cáo muốn cầm xe mô tô nên ông nói D đưa xe về nhà để ông xem. Sau khi xem xe, ông đồng ý cầm cố với giá 5.000.000 đồng. Sau đó, D chở ông T đến quán cà phê và ông đưa cho bị cáo P 5.000.000 đồng. Khi các bị cáo đang đang đánh bạc bằng hình thức bầu cua thì ông ngồi uống cà phê cho đến khi bị công an bắt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Tại phiên tòa, các bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến khiếu nại về hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về trách nhiệm hình sự:
[2.1]. Xét về hành vi phạm tội:
Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Ngày 24/8/2019, tại quán cà phê F thuộc Khu x, trấn T P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, Lê Anh Q, Đặng P, Trần Minh Nhật B, Lê Chí C và đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tham gia đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức đánh bầu cua do bị cáo Q làm cái. Thu giữ trên chiếu bạc số tiền 570.000 đồng và thu giữ trên người các đối tượng này số tiền 10.124.000 đồng được dùng vào việc đánh bạc, tổng cộng 10.694.000 đồng.
Hành vi của các bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2.2]. Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:
Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, mà còn gây bất bình trong cộng đồng dân cư, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương và là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của các nhóm tội phạm khác. Vì vậy để giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội cần có đường lối xử phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện.
Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều có vai trò là người thực hành, tham gia đánh bạc. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương đương nhau. Tuy nhiên, bị cáo Q là người khởi xướng việc đánh bạc nên cần tuyên mức hình phạt nghiêm khắc hơn.
[2.3]. Về tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đối với bị cáo P và bị cáo B có nhân thân xấu, đã bị kết án về tội đánh bạc tuy đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học sửa đổi bản thân và tiếp tục phạm tội nên cần tuyên mức án nghiêm hơn.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Đối với bị cáo Lê Anh Q và Lê Chí C còn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử cân nhắc để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.
Từ nội dung đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử cân nhắc, quyết định mức án phù hợp đối với từng các bị cáo, thể hiện sự nghiêm minh, khoan hồng của chính sách pháp luật.
Tòa án mở phiên tòa xét xử công khai vụ án để xử lý hành vi phạm tội của các bị cáo và để tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong xã hội.
[3] Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung công số tiền 10.694.000 đồng các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc đây là khoản tiền liên quan, sử dụng vào việc phạm tội nên cần phải truy thu sung công quỹ nhà nước là đúng pháp luật;
- Tịch thu tiêu hủy: 52 lá bài tây đã qua sử dụng, 03 tờ giấy kích thước 40 x 60 cm có in hình bầu, cua, tôm, cá, gà, nai; 01 bộ gồm: 01 gàu nhựa, 01 cái dĩa và 03 hột bầu cua là công cụ thực hiện hành vi phạm tội do không còn giá trị sử dụng.
- Quá trình điều tra, đã trả lại bị cáo Trần Minh Nhật B 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đồng, trả lại bị cáo Lê Chí C 01 điện thoại hiệu Masstel màu vàng đồng và trả lại bị cáo Đặng P 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen – xám biển số 60B4 – 638.01 do không liên quan đến hành vi phạm tội là đúng pháp luật nên không xem xét.
- Quá trình điều tra, trả lại cho Trần Quốc D số tiền 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 plus màu hồng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; trả lại cho Trần Đình T 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen vì đây là tài sản hợp pháp của anh D và ông T do không liên quan đến vụ án là đúng pháp luật nên không xem xét.
[4] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Về những vấn đề khác:
Đối với Nguyễn Thị Hồng D là chủ quán cà phê nhưng khi các bị cáo đánh bạc thì không được sự đồng ý của chị D và chị D không biết việc các bị cáo đánh bạc và không có ở quán nên không xử lý.
Đối với đối tượng tên H là người tham gia đánh bạc nhưng chưa xác minh được nhân thân, lai lịch, chỉ xác định được một số đặc điểm nhận dạng. Khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với Trần Đình T: Không biết mục đích cầm cố xe mô tô biển số 60B4 – 638.01 của bị cáo P là dùng vào mục đích đánh bạc nên không xử lý.
Đối với Trần Quốc D: Không tham gia đánh bạc nên không xử lý.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo và đề nghị mức hình phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm i khoản 1 Điều 51; Điều 35, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đối với bị cáo Lê Anh Q và Lê Chí C còn được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
1. Tuyên bố: Các bị cáo Lê Anh Q, Đặng P, Lê Chí C và Trần Minh Nhật B phạm tội: “Đánh bạc”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Anh Q, mức phạt tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Lê Chí C, mức phạt 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng); Xử phạt: Bị cáo Đặng P, mức phạt 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng); Xử phạt: Bị cáo Trần Minh Nhật B, mức phạt 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 10.694.000 đồng (Mươi triệu sáu trăm chín mươi bốn nghìn đồng) vì đây là khoản tiền sử dụng vào việc phạm tội.
(Theo Biên lại thu số 0003443 ngày 01/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú).
- Tịch thu tiêu hủy: 52 lá bài tây đã qua sử dụng, 03 tờ giấy kích thước 40 x 60 cm có in hình bầu, cua, tôm, cá, gà, nai; 01 bộ gồm: 01 gàu nhựa, 01 cái dĩa và 03 hột bầu cua là công cụ thực hiện hành vi phạm tội do không còn giá trị sử dụng.
(Theo biên B giao nhận vật chứng ngày 01/11/2019 giữa cơ quan Cảnh sát Điều tra công an huyện Tân Phú và Chi cục THADS huyện Tân Phú).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng);
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 292; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 121/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 121/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về