TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 121/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Vào hồi 13 giờ 30 phút ngày 27 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 119/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Bá N; tên gọi khác: Không; sinh năm 1970; tại huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản L, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: 7/12; con ông: Nguyễn Bá L, đã chết và con bà: Hoàng Thị M, đã chết; bị cáo có vợ là Lường Thị M, sinh năm 1971 và 02 người con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số 16/2012/HSST ngày 22/02/2012 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, bị cáo bị xử phạt 28 tháng tù); 01 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy (Bản án số 06/2014/HSST ngày 24/10/2014 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, bị cáo bị xử phạt 30 tháng tù); nhân thân của bị cáo: Năm 1993 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Đến năm 1998 phạm tội mua bán trái phép chất ma túy và bị xử phạt 48 tháng tù nhưng Tòa án nhân dân Tối cao xét xử phúc thẩm tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/9/2018 đếnngày 18/9/2018 và bị cáo bị tạm giam từ ngày 18/9/2018 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất và có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Họ và tên: Cà Văn C; tên gọi khác: Không; sinh năm 1964; nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 00 phút, ngày 08/9/2018; Nguyễn Bá N đi bộ một mình đến bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến đập tràn thuộc bản C, xã Q; bị cáo N gặp một người đàn ông dân tộc T đang sử dụng ma túy dưới bờ suối. Bị cáo N chờ người đàn ông đó lên đường và N lại gần nói chuyện hỏi mua ma túy. Qua nói chuyện người đàn ông đó giới thiệu tên là D ở bản B, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên. Sau khi giới thiệu xong thì N có hỏi D “Anh có hàng bán không bán cho em một ít?”, D trả lời “Có nhưng mày phải lên trên kia mới có, còn ở đây không còn”. Tiếp đó D hỏi N “Mày lấy nhiều không, lấy thứ gì?”; N hỏi lại D “H anh bán bao nhiêu một con?”, D trả lời “H bán giá đổ bốn mươi, lẻ bốn lăm, lấy nhiều không?, N nói với D “Em chỉ có một triệu, anh bán cho em chín trăm nghìn đồng thôi, anh bán cho em mười năm viên hồng, còn lại bao nhiêu anh bán Heroine cho em”. Sau đó N lấy tiền đưa cho D 900.000đ, D nhận tiền rồi dùng xe máy chở N lên đến đầu dốc thuộc bản C, xã Q, huyện T. Khi đến đỉnh dốc D dừng xe bảo N đứng đợi ở ngoài đường Quốc lộ, còn D đi vào một bụi cây gần đó một lúc sau quay ra chỗ N đứng. D đưa cho N 02 gói nilon, trong đó có một gói màu trắng chứa Heroine, một gói nilon màu hồng chứa 15 viên ma túy tổng hợp. Việc mua bán trao đổi ma túy diễn ra chỉ có N và người đàn ông tên D biết với nhau, ngoài ra không có ai tham gia cùng, khi mua không xác định khối lượng ma túy. Sau khi mua được ma túy, N cất giấu vào túi áo khoác đang mặc trên người rồi đi về nhà. Khi về nhà N vẫn cất giấu ma túy trong túi áo khoác N mặc treo ở trên đầu giường ngủ, không nói cho vợ, con biết. Trong thời gian từ ngày 08/9/2018 đến ngày 11/9/2018 N đã sử dụng hết một viên ma túy tổng hợp và một ít Heroine. Đến khoảng 19 giờ ngày 11/9/2018, có Cà Văn C; trú tại bản C, xã Quài N, huyện T, tỉnh Điện Biên đến nhà N hỏi mua ma túy để sử dụng. Khi đến nhà N, C hỏi N “Mày có hồng không bán cho tao năm con?”, N hiểu ý nên trả lời “Chỉ để lại cho một con thôi”, C hỏi N “Bao nhiêu một con”, N trả lời “Chín mươi nghìn đồng một con”; C đã đồng ý mua và lấy tiền đưa cho N 90.000đ. N nhận tiền của C và lấy 01 viên hồng bán cho C. Việc mua bán chỉ có N và C biết với nhau, không cân xác định khối lượng, không ai tham gia cùng, việc mua bán diễn ra tại nhà N. Số Heroine và ma túy tổng hợp còn lại, N cất giấu vào túi áo khoác mặc trên người. Đến khoảng 19 giờ 10 phút ngày 12/9/2018, tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã đến nhà N để kiểm tra, thấy N đang đứng ở khu vực cổng nhà N. Qua kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ của N 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi Heroine; 01 gói nilon màu hồng bên trong có đựng 13 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp. Tổ công tác đã đưa bị cáo Nguyễn Bá N cùng vật chứng về Cơ quan điều tra để làm rõ.
Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở niêm phong có sự chứng kiến của bị cáo: Đối với 01 gói chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo Nguyễn Bá N được xác định khối lượng 0,39 gam và trích 0,06 gam làm mẫu vật gửi giám định. 13 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp thu giữ của bị cáo Nguyễn Bá N được xác định khối lượng 1,32 gam và trích 0,1 gam làm mẫu gửi giám định. Cơ quan điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số: 175, ngày 19/9/2018. Tại bản Kết luận giám định số: 818/GĐ-PC09 ngày 29/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ củaNguyễn Bá N là chất ma túy: Loại Heroine và mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vậy chứng thu giữ của Nguyễn Bá N gửi giám định là ma túy: LoạiMethamphetamine.
Tại Cáo trạng số: 99/CT-VKSTG ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Nguyễn Bá N về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.
Tại phiên tòa Vị kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá N phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và áp dụng điểm q khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 tuyên phạt bị cáo N từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; không phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng: Mẫu số 1: 1,22 Methamphetamine, mẫu số 2: 0,33 gam chất bột màu trắng Heoine; tịch thu số tiền 90.000đ do bị cáo bán ma túy cho Cà Văn C mà có để sung quỹ Nhà nước; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu SamSung màn hình mặt trước màu đen đã bị vỡ, viền và mặt sau màu trắng được bọc một ốp nhựa dẻo màu ố vàng, kèm theo thẻ sim số IMEI 1: 355639076317458/01 số IMEI 2: 355640076317456/01 điện thoại đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động hiệu Galaxy-docomo mặt trước màu đen đã bị vỡ, viền màu trắng mặt sau màu ghi được bọc một ốp nhựa dẻo màu ố vàng, kèm theo thẻ sim số IMEI: 357568062124420/01 điện thoại đã qua sử dụng và số tiền 410.000đ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệphí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo Nguyễn Bá N nhận mình đã có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo; đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Bá N đã thừa nhận: Vào hồi 19 giờ ngày 11/9/2018 bị cáo N đã bán cho Cà Văn C ở bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên 01 viên ma túy tổng hợp Methamphetamine với giá 90.000đ/viên, địa điểm trao đổi mua bán ma túy diễn ra tại nhà bị cáo. Đến 19 giờ 10 phút ngày 12/9/2018 tổ công tác đã phát hiện bắt quả tang thu giữ của bị cáo N 01 gói Heroine có khối lượng 0,39 gam và 13 viên ma túy tổng hợp Methamphetamin có khối lượng 1,32 gam. Số ma túy bị cáo bán cho C và bị cơ quan điều tra thu giữ là do bị cáo mua của một người đàn ông tên D, giới thiệu cư trú tại bản B, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên với giá 900.000đ. Trong số ma túy mua được của D, bị cáo đã sử dụng 1 viên ma túy tổng hợp và một ít Heroine nhưng bị cáo cũng không xác định khối lượng khi sử dụng. Bị cáo mua ma túy ngoài mục đích để sử dụng, bị cáo còn bán lẻ kiếm lời. Tại cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo mở niêm phong xác định khối lượng thì bị cáo đều được chứng kiến và thừa nhận khối lượng thu giữ được xác định là hoàn toàn chính xác. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung cáo trạng và tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Bá N đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố vàKiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, đồng thời hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm cho tình hình phạm tội về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp và cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo có hành vi bán 01 viên ma túy tổng hợp Methamphetamine cho Cà Văn C, bị cáo phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù.
[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên. Bị cáo được bố mẹ nuôi cho ăn học hết lớp 7/12 thì nghỉ học ở nhà sản xuất cùng gia đình. Năm 1990 nghiện chất ma túy. Năm 1993 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Năm 1997 kết hôn với chị Lường Thị M; sinh năm 1971 và có 02 người con. Đến năm 1998 phạm tội mua bán trái phép chất ma túy và bị xử phạt 48 tháng tù nhưng Tòa án nhân dân Tối cao xét xử phúc thẩm tuyên trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa. Năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xử phạt 28 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 12/9/2018 bị cáo bị bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, ngày 18/9/2018 khởi tố vụ án. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Bá L được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng ba; nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo là người chồng, người cha trong gia đình, lẽ ra bị cáo cần phải nỗ lực rèn luyện, lao động để xây dựng kinh tế cùng gia đình, là tấm gương để các con noi theo. Hơn nữa, bị cáo đã nhiều lần nhận được sự cải tạo giáo dục của Nhà nước nhưng không lấy đó làm bài học, là cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm để hướng thiện. Chỉ vì không vượt qua khỏi những cám dỗ, ham lợi nhuận nên bị cáo đã bất chấp quy định của Pháp luật cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo nghiện ma túy, là người có nhân thân xấu. Bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội cũng là giúp bị cáo có thời gian cách ly để cai nghiện ma túy.
[5] Theo khoản 5 Điều 251 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định; bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Bá N từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo nên cần chấp nhận.
[7] Về vật chứng:
Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm b, c Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, điểm b khoản 2 Điều106 BLTTHS năm 2015 để xử lý vật chứng như sau: Tịch thu tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng: Mẫu số 1: 1,22Methamphetamine, mẫu số 2: 0,33 gam chất bột màu trắng Heoine; tịch thu số tiền 90.000đ do bị cáo bán ma túy cho Cà Văn C mà có để sung quỹ Nhà nước; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu SamSung màn hình mặt trước màu đen đã bị vỡ, viền và mặt sau màu trắng được bọc một ốp nhựa dẻo màu ố vàng, kèm theo thẻ sim số IMEI 1: 355639076317458/01 số IMEI 2: 355640076317456/01 điện thoại đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động hiệu Galaxy-docomo mặt trước màu đen đã bị vỡ, viền màu trắng mặt sau màu ghi được bọc một ốp nhựa dẻo màu ố vàng, kèm theo thẻ sim số IMEI: 357568062124420/01 điện thoại đã qua sử dụng và số tiền 410.000đ trả lại cho bị cáo vì không liên quan đến hành vi phạm tội.
[8] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo đủ điều kiện miễn án phí hình sự sơ thẩm.
[9] Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Bị cáo không khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b, c Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; tuyên xử:
1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bá N phạm tội: Mua bán trái phép chấtma túy.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Bá N 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/9/2018.
3. Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng: Mẫu số 1: 1,22 Methamphetamine, mẫu số 2: 0,33 gam chất bột màu trắng Heoine; tịch thu số tiền 90.000đ do bị cáo bán ma túy cho Cà Văn C mà có để sung quỹ Nhà nước; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu SamSung màn hình mặt trước màu đen đã bị vỡ, viền và mặt sau màu trắng được bọc một ốp nhựa dẻo màu ố vàng, kèm theo thẻ sim số IMEI 1: 355639076317458/01 số IMEI 2: 355640076317456/01 điện thoại đã qua sử dụng,01 điện thoại di động hiệu Galaxy-docomo mặt trước màu đen đã bị vỡ, viền màu trắng mặt sau màu ghi được bọc một ốp nhựa dẻo màu ố vàng, kèm theo thẻ sim số IMEI: 357568062124420/01 điện thoại đã qua sử dụng. Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Phiếu nhập kho vật chứng số PNKVC20 ngày 13/11/2018 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Bá N 410.000đ (Bốn trăm mười nghìn đồng) theo giấy Ủy nhiệm chi ngày 13/11/2018 giữa Công an huyện Tuần Giáo và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.
4. Án phí: Bị cáo Nguyễn Bá N được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Bá N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/11/2018).
Bản án 121/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 121/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về