TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 120/2021/DS-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 483/2020/TLST-DS ngày 14 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2021/QĐXX-ST ngày 05 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/QĐST-DS ngày 25 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm: 1983 Địa chỉ: ấp TH, xã TH, huyện CT, Tiền Giang Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm: 1987. Có mặt; Địa chỉ: ấp TH, xã TH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang
2.Bị đơn: Nguyễn Quan D, sinh năm: 2000 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp TP1, xã TLĐ, huyện CT, Tiền Giang
NỘI DUNG VỤ ÁN
-Trong đơn khởi kiện ngày 25/11/2020 của nguyên đơn Nguyễn Thị Thúy H và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thùy L trình bày:
Vào ngày 09/01/2020 chị H có cho anh Nguyễn Quan D vay số tiền 19.600.000 đồng với thời hạn vay là một tháng. Hai bên có làm bản hợp đồng cho mượn tiền, anh D điền thông tin vào mẫu và ký ghi họ tên. Trong hợp đồng không có ghi lãi suất nhưng hai bên có thỏa thuận miệng là 1%/tháng. Khi đến hạn, anh D không trả vốn và lãi, chị H có nhiều lần yêu cầu trả nhưng anh D hứa hẹn mà không trả.
Nay, chị H khởi kiện yêu cầu buộc anh Nguyễn Quan D có nghĩa vụ trả lại cho chị H số tiền vay 19.600.000 đồng và tiền lãi 0,83%/tháng trên vốn gốc tính từ ngày vay đến ngày xét xử, trả khi án có hiệu lực pháp luật.
Anh Nguyễn Quan D đã được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như các văn bản tố tụng khác nhưng không đến Tòa án và cũng không có văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị H.
Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Thùy L đại diện theo ủy quyền của chị Nguyễn Thị Thúy H vẫn giữ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như đã trình bày, yêu cầu anh D trả tiền vốn 19.600.000 đồng và tiền lãi 10%/năm trên tiền vốn từ ngày 09/02/2020 đến ngày xét xử, trả khi án có hiệu lực pháp luật.
Anh Nguyễn Quan D vắng mặt tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Quan D được triệu tập dự phiên tòa hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh D.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Thùy L vẫn giữ yêu cầu khởi kiện của chị H là yêu cầu anh D trả tiền vốn 19.600.000 đồng và tiền lãi 10%/năm tính trên tiền vốn từ ngày 09/02/2020 đến ngày xét xử, trả khi án có hiệu lực pháp luật Trong quá trình giải quyết vụ án cho đến ngày xét xử, bị đơn Nguyễn Quan D vắng mặt và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để giải quyết vụ án.
Theo bản hợp đồng cho mượn tiền đề ngày 09/01/2020 do nguyên đơn cung cấp thì thấy rằng chị H có cho anh D vay số tiền là 19.600.000 đồng, thời hạn vay là 30 ngày. Theo chị L thì đến hạn anh D không trả dù chị H yêu cầu nhiều lần, đến nay vẫn chưa trả khoản tiền nào.
Anh D không có văn bản nêu ý kiến gì đối với yêu cầu của chị H dù đã được triệu tập đến Tòa án nhiều lần và được thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ.
Xét, qua lời trình bày của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, bị đơn cũng không có ý kiến phản đối gì nên căn cứ vào Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là những tình tiết sự kiện không phải chứng minh. Như vậy có đủ cơ sở xác định anh D có vay chị H số tiền 19.600.000đồng với thời hạn 30 ngày, đến nay chưa trả. Do đó nay chị H yêu cầu anh D trả số tiền 19.600.000 đồng là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2] Về yêu cầu trả lãi, chị L cho rằng chị H có thỏa thuận lãi suất là 1%/tháng nhưng chị H không có tài liệu chứng cứ chứng minh, bị đơn không đến Tòa án nên không làm rõ được ý kiến này của nguyên đơn.
Xét, theo bản hợp đồng cho mượn tiền thì không có ghi mức lãi suất nên Hội đồng xét xử xác định là vay không có lãi.
Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 466 Bộ luật dân sự (BLDS) thì trường hợp này nguyên đơn có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, bên nguyên đơn yêu cầu trả tiền lãi trên tiền vốn với mức lãi suất là 10%/năm, yêu cầu này phù hợp với khoản 2 Điều 468 BLDS nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ ngày 09/02/2020 đến ngày xét xử (13/4/2021) tính tròn là 14 tháng.
Như vậy 19.600.000đ x 10/năm = 1.960.000 đồng/năm. Chia ra mỗi tháng là 163.333 đồng. Tổng cộng 14 tháng x 163.333đ = 2.286.666 đồng Như vậy tổng cộng số tiền vốn và lãi là 21.886.666 đồng, cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn khi án có hiệu lực pháp luật.
[3] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Hoàn tạm ứng án phí cho nguyên đơn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 5, Điều 92, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 463, 466, 468, 357 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Thúy H.
1. Buộc anh Nguyễn Quan D có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị Thúy H số tiền 21.886.666 đồng (Hai mươi mốt triệu tám trăm tám mươi sáu ngàn sáu trăm sáu sáu đồng). Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày chị H có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp anh D chậm thi hành số tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.
2. Về án phí: Anh Nguyễn Quan D chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.094.333 đồng.
Hoàn lại cho chị Nguyễn Thị Thúy H số tiền tạm ứng án phí 1.029.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003683 ngày 09/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 120/2021/DS-ST ngày 13/04/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 120/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về