Bản án 120/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 120/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 239/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 287/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1983; Địa chỉ: ấp 6, xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1982; Địa chỉ: ấp 6, xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn cómặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12/6/2019 vàcác lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị vàbị đơn là anh Nguyễn Văn Đ chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Long, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào ngày 17/11/2008. Vợ chồng cùng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân chính xảy ra mâu thuẫn làvợ chồng sống chung nhưng bất đồng quan điểm, anh Đ còn bạo hành trong gia đình, đánh đập chị nên chị đã bỏ nhàvàvợ chồng đã chia tay và chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ đầu năm 2019 cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị có yêu cầu ly hôn với anh Đ.

Trong quá trình chung sống chị vàanh Đ có 01 con chung làcháu Nguyễn Hoàng Phúc Thịnh, sinh ngày 11/9/2009 hiện do chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, chị có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung, chị không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung vànợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn vàyêu cầu được trực tiếp nuôi con, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Tại đơn đề nghị giải quyết và xét xử vắng mặt của anh Nguyễn Văn Đ, anh Đ trình bày:

Anh đồng ý thuận tình ly hôn với vợ anh là chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Anh đồng ý giao con chung làcháu Nguyễn Hoàng Phúc Thịnh, sinh ngày 11/9/2009 cho vợ anh tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Anh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung vànợ chung: không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Đ có yêu cầu xin xét xử vắng mặt vì anh bận việc nên không thể tham gia giải quyết vụ án xin ly hôn được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: anh Nguyễn Văn Đ là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng anh có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt anh vì anh bận việc nên không thể đến Tòa án giải quyết vụ án xin ly hôn được. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Đ.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Đ chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Long, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào ngày 17/11/2008 nên quan hệ hôn nhân của anh chị được coi là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Vợ chồng anh Đ vàchị H cùng chung sống với nhau ở ấp 6, xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Trong quá trình chung sống, vợ chồng có hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn, anh chị thường xuyên cải vã với nhau, thường hay bất hòa. Theo chị H thìnguyên nhân chính làdo anh Đ bạo hành trong gia đình, đánh đập chị nên chị đã bỏ nhàvề nhà cha mẹ ruột ở ấp 9, xã Phước Long sinh sống, vợ chồng đã chia tay và chấm dứt quan hệ vợ chồng kể từ đầu năm 2019 cho đến nay, không có thời gian đoàn tụ.

Hi đồng xét xử xét thấy anh Đ và chị H đã sống ly thân với nhau từ đầu năm 2019, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, anh chị không còn quan tâm chăm sóc nhau như vợ như chồng. Do chị H không còn tình cảm vợ chồng với anh Đ nữa nên chị có yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ. Từ những mâu thuẫn đó, xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh Đ đã trầm trọng vìchị H vàanh Đ đã sống ly thân với nhau gần 01 năm, không có thời gian đoàn tụ, chăm sóc với nhau như vợ như chồng. Tòa án đã tiến hành hòa giải cho chị H và anh Đ đoàn tụ, hàn gắn vợ chồng nhưng chị H cương quyết xin ly hôn, không đồng ý đoàn tụ. Mặt khác, anh Đ cũng không còn tình cảm với chị H nữa, anh Đ cũng đồng ý thuận tình ly hôn.

Xét thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị H vàanh Đ đều đồng ý thuận tình ly hôn. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận và công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị H vàanh Đ là phù hợp.

- Về con chung: Chị H vàanh Đ có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Phúc Thịnh, sinh ngày 11/9/2009. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị H vàanh Đ sống ly thân cho đến nay, chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phúc Thịnh, chị vẫn đảm bảo quyền và lợi ích cho trẻ, cháu Thịnh do chị H trực tiếp nuôi dưỡng đã ổn định. Mặt khác, cháu Phúc Thịnh đã trên 07 tuổi, Tòa án tiến hành lấy ý kiến của cháu và cháu cũng có yêu cầu được tiếp tục sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn, anh Đ cũng đồng ý giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo cuộc sống ổn định vàkhông nên làm xáo trộn về tâm lý của trẻ nên chấp nhận yêu cầu của chị H được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Đi với việc cấp dưỡng nuôi con, theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị H không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị H, không trái với quy định pháp luật nên ghi nhận.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị H vàanh Đ đều cho rằng vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản chung vàkhông cónợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

- Về án phí: Chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vìcác lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 55, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Điền quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phíTòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H vàanh Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Ghi nhận chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn Đ có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Phúc Thịnh, sinh ngày 11/9/2009.

Giao con chung cho chị H tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung chưa thành niên. Anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con (Do chị H không có yêu cầu).

Anh Nguyễn Văn Đ được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh Đ thực hiện quyền này.

Vìli ích của con, một hoặc cả hai bên cóquyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84, Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên đều không cóyêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

4. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp là300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004206 ngày 27 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm; chị H đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày: Đối với nguyên đơn có mặt tại tòa thìkể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt tại tòa thì kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy Ban nhân dân xã nơi cư trú của bị đơn; có quyền kháng cáo đối với bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

327
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:120/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về