TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 119/2020/HS-PT NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 26 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 158/2020/TLPT-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn H và Ngô Văn C, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 39/2020/HS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Văn H (tên gọi khác V), sinh năm 1992; nơi sinh, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi sinh sống: Thôn N 5, xã A, huyện D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Ngô Thị B; có vợ nhưng đã ly hôn và có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 06 ngày 29/12/2014 của Công an huyện K, phạt tiền Nguyễn Văn H về hành vi Gây rối trật tự công cộng; bị cáo tại ngoại. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
2. Ngô Văn C, sinh năm 1995; nơi sinh, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi sinh sống: Thôn N 3, xã A, huyện D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Đình N (Ngô Văn N) và bà Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại. (Có mặt) Người bào chữa cho bị cáo Ngô Văn C: Ông Hoàng Trọng C và Nguyễn Đức H – Luật sư Công ty luật TNHH T, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; địa chỉ: Số 05 ngách 24 ngõ 1 đường T, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.
(Ông Hoàng Trọng C có mặt, ông Nguyễn Đức H vắng mặt) - Bị hại:
+ Đồng Văn L, sinh ngày 22/02/2001; nơi cư trú: Thôn Đ, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương - bị cáo trong vụ án.
+ Anh Đào Văn C, sinh năm 1998; nơi cư trú: Thôn Đ, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương.
(Các bị hại đều vắng mặt) Ngoài ra còn 02 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 06/6/2019, quán “B” ở thôn P, xã G (nay là xã C), huyện K, tỉnh Hải Dương của anh Đồng Văn G khai trương, có đông người đến ăn, uống bia tại quán. Trong đó, có Nguyễn Văn H (tên gọi khác là V) cùng Lưu Việt A, Ngô Văn C (đều là bạn của H) ngồi uống bia với nhau tại bàn bên phải phía trong quán; Đồng Văn L cùng các bạn của L ngồi uống bia với nhau tại bàn bên trái phía trong quán. Đến khoảng 20 giờ 15 phút cùng ngày, L ra đứng ở khu vực hiên trước cửa quán thì gặp H đi ra thanh toán tiền. Tại đây, L và H xảy ra mâu thuẫn lời qua tiếng lại, cãi chửi nhau. L dùng tay phải khoác vai H bảo đi ra khu vực trước cửa quán nói chuyện, vừa đi L và H giằng co nhau, L dùng tay trái cầm 01 chiếc cốc thủy tinh cao khoảng 12cm, đường kính miệng cốc khoảng 8cm, đáy khoảng 5cm, có một quai dùng để uống bia trên bàn gần đó đập vào đầu H. H cũng lấy cốc thủy tinh có đặc điểm như trên cầm bằng tay phải đập vào đầu L làm rách da vùng thái dương chẩm trái của L. Sau đó, L và H tiếp tục dùng cốc thủy tinh đánh vào người nhau, khi cốc rơi vỡ thì dùng tay, chân đánh, vật lộn nhau ở khu vực đường thôn P trước cửa quán bia. Trong khi đánh nhau với L, H hô “Chúng mày đánh chết mẹ thằng này đi”, lúc này A và C từ quán chạy ra để giúp H. C dùng 2 tay ôm ngang người L, L vung tay và bị rơi xuống rãnh nước bên cạnh đường trước cửa quán, H đi đến dùng tay, chân đánh vào người L. A quan sát xung quanh thấy ở giá để hàng phía trước của một xe máy (không rõ của ai, đặc điểm, nhãn hiệu, biển số) có 01 con dao kim loại dài 44cm, đầu nhọn, lưỡi sắc, phần lưỡi rộng nhất 5,5cm, màu đen trắng, cán gỗ dài 14cm trong 01 vỏ bao gỗ màu vàng đỏ, bên ngoài băng dính đen, A rút dao ra khỏi vỏ gỗ cầm đi đến vị trí L và H đánh nhau. Còn C chạy lại hiên quán lấy khoảng 02 đến 03 cốc thủy tinh có đặc điểm như trên ném về phía L mục đích gây thương tích nhưng không trúng người L, cốc rơi xuống đường làm vỡ ra. Lúc này, L leo lên mặt đường thì tiếp tục bị H dùng tay, chân đánh, L ngã nằm ngửa ra đường thì A cầm dao chém nhiều nhát về phía tay và người L, L nằm lăn lộn trên mặt đường khi bị H, A đánh, chém làm L bị các vết thương rách da chảy máu ở cánh tay phải, cẳng tay phải, cẳng tay trái, 2 vết thương rách da mặt sau vai lưng trái. L vùng dậy bỏ chạy vào khu vực hiên quán, nhóm H đuổi theo thì anh Phạm Huy D, sinh năm 1988, trú tại thôn T, xã Đ, huyện K (là người quen của L) can ngăn lại, anh D giật được dao từ tay A ném ra ruộng trước cửa quán bia. Trong lúc anh D đang can ngăn thì L lấy cốc thủy tinh dùng uống bia đập trúng vào đầu H tại khu vực cửa quán rồi bỏ chạy vào trong quán đi cửa sau ra ngoài, C cầm khoảng 02 đến 03 cốc thủy tinh ném về phía L nhưng không trúng, làm cốc rơi xuống nền quán vỡ làm nhiều mảnh.
Khi chạy được ra ngoài, L điện thoại nói cho bạn là anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1996, trú tại thôn H, xã T, huyện K biết sự việc và nhờ anh T đến đón. Khi anh T chưa đến thì L được anh D đưa đến Trung tâm y tế huyện K sơ cứu, sau đó chuyển Bệnh viện VT Hải Phòng điều trị. Khi nhận điện thoại của L, anh T đang đi cùng xe máy với bạn là anh Đào Văn C, sinh năm 1998, trú tại thôn Đ, xã G, anh T rủ anh C đi cùng. Khoảng 5 phút sau đến quán “B”, anh C và anh T xuống xe đi vào thì gặp nhóm H đang đứng ở cửa quán, lúc này H nhầm tưởng anh C là L quay lại đánh nên chạy vào trong bếp của quán lấy 01 con dao bằng kim loại dài khoảng 25cm, bản rộng khoảng 10cm chạy ra chém một nhát trúng vùng thắt lưng bên trái anh C làm rách da chảy máu. Anh C bỏ chạy, sau đó được anh T đưa đến Trung tâm y tế huyện K sơ cứu và chuyển Bệnh viện VT Hải Phòng điều trị.
Sau khi chém anh C, H vứt dao ở khu vực rìa đường trước cửa quán bia rồi cả nhóm đi về, H bị thương rách da vùng đầu do L dùng cốc thủy tinh đập và bị vết thương rách da ở ngón II bàn chân trái do trong lúc đuổi đánh nhau giẫm vào mảnh cốc thủy tinh, H sơ cứu tại trạm y tế xã A, huyện D, thành phố Hải Phòng sau đó chuyển điều trị tại Bệnh viện Q Hải Phòng.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 364/2019/TgT ngày 25/7/2019 đối với Đồng Văn L, Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Đồng Văn L bị chấn thương gây rách da cơ một số nơi, không tổn thương sọ não, không tổn thương xương khớp, nội tạng, đã được điều trị tương đối ổn định. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của vết thương rách da đầu nhỏ vùng thái dương chẩm trái gây nên là 01%; vết thương rách da cơ lớn 1/3 dưới cánh tay phải gây nên là 09%; vết thương rách da mặt sau giữa cẳng tay phải gây nên là 02%; vết thương rách da mặt sau trên cẳng tay trái là 03%; 02 vết thương rách da mặt sau vai lưng trái là 02% (mỗi vết 01%). Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do các thương tích gây nên theo phương pháp cộng lùi và làm tròn số là 16%. Vết thương rách da vùng thái dương chẩm trái có đặc điểm do vật có góc cạnh cứng tác động trực tiếp gây nên. Cạnh đáy hoặc miệng cốc thủy tinh có đặc điểm mô tả như nêu trên có thể gây nên được vết thương trên. Các vết thương còn lại có đặc điểm do vật sắc hoặc sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên.
Con dao kim loại có đặc điểm mô tả như con dao A sử dụng chém L có thể gây ra được các vết thương trên.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 365/2019/TgT ngày 25/7/2019 đối với Đào Văn C, Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Đào Văn C bị 01 vết thương rách da phần mềm lớn vùng thắt lưng trái, đã điều trị tương đối ổn định. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 08%. Thương tích có đặc điểm do vật sắc hoặc sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên. Con dao có đặc điểm như con dao H sử dụng chém C có khả năng gây nên được thương tích trên. Anh C có đơn yêu cầu khởi tố hình sự đối với Nguyễn Văn H.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 364387/2019/TgT ngày 05/8/2019 đối với Nguyễn Văn H, Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Nguyễn Văn H bị chấn thương gây rách da đầu, rách da ngón II chân trái, không tổn thương sọ não, đã được điều trị tương đối ổn định. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của vết thương rách da đầu gây nên là 03%; vết thương nhỏ ngón II chân trái gây nên là 01%. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do các thương tích gây nên theo phương pháp cộng lùi và làm tròn số là 04%. Vết thương đầu có đặc điểm do vật có góc cạnh cứng, có thể sắc hoặc tương đối sắc tác động trực tiếp gây nên. Vết thương ngón II chân trái có đặc điểm do tác động thương hỗ với vật có góc cạnh sắc gây nên. Chiếc cốc có đặc điểm như nêu trên có thể gây nên được các thương tích trên. H không yêu cầu khởi tố hình sự đối với Đồng Văn L.
Về tài sản bị thiệt hại, trong quá trình các bị can đuổi đánh nhau tại quán “B”, tài sản của quán bị thiệt hại gồm: 10 cốc thủy tinh, 02 đĩa sứ đều bị vỡ, hỏng. Kết luận định giá tài sản số 80/KL-HĐĐG ngày 19/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện K kết luận: Tổng trị giá tài sản bị thiệt hại là 120.000 đồng.
Tại bản án sơ thẩm số 39/2020/HS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện K căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn H và Ngô Văn C; xử phạt Nguyễn Văn H 30 tháng tù và Ngô Văn C 27 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Ngoài ra cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với 02 bị cáo khác; biện pháp tư pháp; án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18 tháng 8 năm 2020 bị cáo Nguyễn Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo Ngô Văn C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Bị cáo H vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị cáo C có mặt; giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
- Người bào chữa cho bị cáo C trình bày lời bào chữa: Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, thành khẩn khai báo, đã bồi thường cho bị hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động do hành vi trái pháp luật của L gây ra (L cầm cốc đánh vào đầu H); có đóng góp phòng chống dịch Covid-19 và ủng hộ phòng trào đoàn tại địa phương. So về tương quan lực lượng thì L cao 1m8, C dáng người nhỏ bé, không đủ khả năng và cũng không trực tiếp gây thương tích cho bị hại, bị hại cũng có lỗi trong vụ án này nên cần đánh giá vai trò đồng phạm của C trong vụ án là thứ yếu. C được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54, Điều 65 BLHS, xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
- Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, xác định cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn H và Ngô Văn C về tội Cố ý gây thương tích điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. H giữ vai trò chính, A và C giữ vai trò đồng phạm tích cực gây thương tích cho anh L. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo H 30 tháng tù, bị cáo C 27 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo cung cấp tài liệu thể hiện có ông ngoại được tặng thưởng huân huy chương, tích cực tham gia phòng, chống dịch Covid-19; ủng hộ cho trường học, là các tình tiết mới nhưng thấy rằng tính chất hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần xử phạt nghiêm, không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt hay cho bị cáo được hưởng án treo. Vì vậy đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLHS, không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Văn H và Ngô Văn C, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn quy định tại Điều 333 BLTTHS nên hợp lệ và được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo H tại phiên tòa sơ thẩm và của bị cáo C tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của hai bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác cùng những chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 06/6/2019, tại khu vực quán “B” của anh Đồng Văn G ở thôn P, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương; do mâu thuẫn cá nhân giữa Nguyễn Văn H và Đồng Văn L. H, A và C có hành vi dùng dao kim loại, cốc thủy tinh (là hung khí nguy hiểm) đánh Đồng Văn L gây thương tích tổn hại 16% sức khỏe. Khi anh Đào Văn C đến, H tiếp tục dùng dao chém anh C gây thương tích tổn hại 08% sức khỏe.
Đồng Văn L có hành vi cãi chửi nhau, đánh nhau với Nguyễn Văn H, L dùng cốc thủy tinh đánh vào đầu H gây thương tích tổn hại 03% sức khỏe, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó Tòa án nhân dân huyện K xét xử bị cáo H và bị cáo C về tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Về tội danh các bị cáo không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo thì thấy: H và C đều không có tiền án, tiền sự, không phải chịu tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hai bị cáo thành khẩn khai báo; tự nguyện bồi thường cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo H tích cực tham gia phong trào phòng, chống dịch bệnh Covid-19 ở địa phương nên hai bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên cấp sơ thẩm áp dụng thiếu tình tiết giảm nhẹ người bị hại có lỗi cho các bị cáo vì ban đầu L gặp H ở khu vực hiên trước cửa quán bia, tại đây hai bên xảy ra mâu thuẫn, lời qua tiếng lại. L khoác vai H bảo ra khu vực trước cửa quán nói chuyện, vừa đi vừa giằng co nhau, L cầm 01 cốc uống bia trên bàn gần đó đập vào đầu H. Như vậy L là người gây sự trước, khoác vai kéo H đi và dùng vũ lực trước nên xác định bị hại có lỗi dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp giữa hai bên, cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS đối với các bị cáo H, C. Tại cấp phúc thẩm bị cáo H cung cấp tài liệu thể hiện H có ông ngoại được tặng thưởng huân huy chương và tham gia ủng hộ Quỹ Cựu chiến binh, ủng hộ cho trường học; bị cáo C cung cấp tài liệu thể hiện có ông ngoại được tặng thưởng huân huy chương, tham gia ủng hộ công tác chống dịch bệnh Covid 19 và phong trào, công tác Đoàn tại địa phương. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên đánh giá hành vi của H và L là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì duyên cớ nhỏ nhặt, các bị cáo sẵn sàng dùng vũ lực, dùng hung khí nguy hiểm gây tổn thương đến cơ thể, sức khỏe của người khác, thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Mức hình phạt 30 tháng tù đối với bị cáo H và 27 tháng tù đối với bị cáo C là đã tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên không chấp nhận kháng cáo, cần giữ nguyên hình phạt đối với hai bị cáo.
[3] Ngoài ra bản án sơ thẩm còn có một số sai sót sau:
Thứ nhất: Bị cáo L bị xét xử về tội Gây rối trật tự công cộng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù. Đây là loại tội phạm nghiên trọng, chỉ một mình bị cáo L bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này trong vụ án nhưng cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ Phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo L là không đúng.
Thứ hai: Đây là vụ án đồng phạm, về tội Cố ý gây thương tích cho L thì C có hành vi ôm ngang người L và cầm cốc uống bia ném về phía L nhưng không trúng; A có hành vi dùng dao chém nhiều nhát về phía tay và người L khi L lăn lộn trên mặt đường gây các vết thương rách da, chảy máu ở cánh tay phải, cẳng tay phải, cẳng tay trái, 2 vết thương rách da mặt sau vai lưng trái. Đây là những vị trí tổn thương chiếm tỷ lệ tổn thương lớn trong tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể 16% của L. Như vậy đánh giá hành vi của A quyết liệt, nguy hiểm hơn C và trực tiếp gây thương tích cho L nhưng cấp sơ thẩm đánh giá A và C đều giữ vai trò đồng phạm tích cực là không đúng mà cần xác định vai trò đồng phạm của A cao hơn của C đối với hành vi gây thương tích cho L. Hình phạt cấp sơ thẩm áp dụng đối với A là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo A.
Tuy nhiên bị cáo, bị hại không kháng cáo, VKS không kháng nghị đối với hình phạt của A và của L, quyết định hình phạt đối với hai bị cáo đã có hiệu lực pháp luật, không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm nên HĐXX không sửa bản án, tuy nhưng cần đề nghị xem xét theo quy định của pháp luật.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Do không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H và bị cáo Ngô Văn C; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 39/2020/HS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương về phần hình phạt của bị cáo H và bị cáo C.
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt Nguyễn Văn H 30 (ba mươi) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Xử phạt Ngô Văn C 27 (hai mươi bảy) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Quyết định bắt bị cáo tại phiên tòa để đảm bảo thi hành án.
2. Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn H và bị cáo Ngô Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 26/11/2020.
Bản án 119/2020/HS-PT ngày 26/11/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 119/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về