Bản án 119/2019/HNGĐ-ST ngày 06/03/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 119/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/03/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXST – HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2019/QĐST – HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thanh N, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Số 141 phố H, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; có mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Số 141 phố H, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 16-01-2019, bản tự khai ngày 21-01-2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Trần Thị Thanh N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Văn H có thời gian tìm hiểu tự nguyện và đăng ký kết hôn tại UBND phường X, thành phố N, tỉnh Nam Định vào năm 2001. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do hai bên không hòa hợp về tính cách quan điểm sống nên thường xảy ra cãi nhau. Anh H không có nghề nghiệp ổn định lại không tu chí làm ăn nên ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, Chị và gia đình nhiều lần khuyên bảo nhưng anh H không có ý thức thay đổi. Vì thương con và tình nghĩa vợ chồng nên chị cứ tiếp tục chung sống với anh H nhiều năm nay, tuy nhiên khoảng 1 năm trở lại đây vợ chòng mâu thuẫn trầm trọng không tìm được tiếng nói chung nên anh chị đã ly thân mặc dù vẫn sống cùng nhà. Nay chị xác định vợ chồng không hàn gắn đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Trần Văn H.

- Về con chung: chị xác nhận vợ chồng có 02 con chung là Trần Hà N, sinh ngày 20-10-2002 và Trần Hà C, sinh ngày 20-02-2006. Nếu ly hôn nguyện vọng của chị xin được nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con vì anh H không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, hiện chị đang kinh doanh nên có thu nhập ổn định để nuôi dưỡng các con chung.

- Về chia tài sản chung: anh chị tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tòa án đã tống đạt hợp lệ báo anh Trần Văn H đến Tòa án làm việc nhưng anh H không đến nên không có lời khai tại Tòa án.

3. Tại đơn đề nghị ngày 24-01-2019 con chung của anh chị là cháu Trần Hà Nhật Mai và Trần Hà Chi Mai trình bày: nguyện vọng của các cháu muốn được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn.

3. Tại đơn đề nghị ngày 24 tháng 01 năm 2019 của chị Trần Thị Thanh N có xác nhận của chính quyền địa phương nơi chị N và anh H sinh sống thì quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn do không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống nên xảy ra va chạm. Do mâu thuẫn căng thẳng hên hiện nay anh chị đã sống ly thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Trần Văn H.

[2] Về nội dung tranh chấp trong vụ án:

2.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thanh N và anh Trần Văn H tìm hiểu tự nguyện và đăng ký kết hôn tại UBND phường X, thành phố N vào năm 2001 nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do hai bên không hòa hợp về tính cách, quan điểm sống nên thường xảy ra va chạm. Theo chị N thì anh H không tu chí làm ăn nên làm ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Bản thân chị và gia đình đã nói chuyện khuyên bảo để anh H thay đổi nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng hơn dẫn đến việc anh chị ly thân khoảng 1 năm nay. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải tạo điều kiện để hai bên đoàn tụ nhưng anh H không có mặt theo giấy triệu tập nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tại phiên tòa chị N vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết ly hôn với anh H.

Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Trần Thị Thanh N và anh Trần Văn H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị Thanh N và anh Trần Văn H.

2.2 Về nuôi con chung: Chị Trần Thị Thanh N và anh Trần Văn H có 02 con chung là Trần Hà N, sinh ngày 20-10-2002 và Trần Hà C, sinh ngày 20-02-2006.

Xét thấy, cả hai cháu đều có nguyện vọng muốn được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn, anh H lại không có lời khai thể hiện quan điểm về giao nuôi con chung, chị N hiện đang kinh doanh có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cả hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: chấp nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

2.3 Về chia tài sản chung: chị Trần Thị Thanh N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

2.4 Về án phí dân sự sở thẩm: Chị Trần Thị Thanh N phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị Thanh N và anh Trần Văn H.

2. Về giao nuôi con chung: Giao cho chị Trần Thị Thanh N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung là Trần Hà N, sinh ngày 20-10-2002 và Trần Hà C, sinh ngày 20-02-2006. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Trần Thị Thanh N không yêu cầu anh Trần Văn H cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Trần Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Thanh N phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Trần Thị Thanh N đã nộp theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0000486 ngày 17 tháng 01 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố N.

4. Chị Trần Thị Thanh N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Văn H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2019/HNGĐ-ST ngày 06/03/2019 về ly hôn

Số hiệu:119/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về