Bản án 1191/2020/HNGĐ-ST ngày 15/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1191/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 645/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 324/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 279/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: hạm hị Kim L, sinh năm: 1992 Địa chỉ: tổ K, ấp B, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn , sinh năm: 1987 Địa chỉ: tổ K, ấp B, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bà Phạm Thị Kim L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Văn T vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 10 tháng 6 năm 2020, bản tự khai ngày 16 tháng 7 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị Kim L trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn T bắt đầu chung sống với nhau vào năm 2016, có tổ chức đám cưới do hai bên tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 23/7/2016. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Đến tháng 10/2017 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T ăn chơi, cờ bạc, chơi đá gà gây nợ nần trong lúc bà đang mang thai nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã. Bà đã khuyên can nhưng ông T vẫn không thay đổi bản tính. Vào cuối tháng 01/2019 ông T tự ý bỏ nhà đi gần hai tháng sau đó bà L có khuyên ông T quay về nhà chung sống. Đến tháng 6/2020 ông T lại tiếp tục cờ bạc, chơi đá gà gây nợ nần mà không lo làm ăn, còn bà không thể nào trả nợ nổi cho ông T nữa. Hiện ông T đã bỏ nhà đi nơi khác nhưng thường xuyên gọi điện thoại về chửi bà và gia đình bên vợ thậm tệ. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Nguyễn Phạm Hoàng T, sinh ngày 22/12/2017. Hiện tại trẻ T đang sống với bà L. Khi ly hôn, bà L yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ T; bà không yêu cầu ông Tòa cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án với nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn theo đơn khởi kiện của bà Phạm Thị Kim L; Giao trẻ Nguyễn Phạm Hoàng T cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Nguyễn Văn T; Bà Phạm Thị Kim L chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Phạm Thị Kim L khởi kiện xin ly hôn với ông Nguyễn Văn T, đây là tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn ông Nguyễn Văn T có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh do đó căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn bà Phạm Thị Kim L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà L và ông T theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Kim L và ông Nguyễn Văn T có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 115, đăng ký ngày 23/7/2016 tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà Phạm Thị Kim L và ông Nguyễn Văn T là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến Tòa án để giải quyết vụ án nên ông T đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình nên ông T phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu xin ly hôn, lời trình bày của bà L và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết vụ án.

[5] Xét yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị Kim L: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị Kim L xác nhận thời gian đầu vợ chồng bà chung sống hạnh phúc nhưng đến tháng 7/2017 thì vợ chồng bà bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông T ăn chơi, cờ bạc, chơi đá gà gây nợ nần, vợ chồng thường xuyên cãi vã, ông T đã bỏ nhà đi từ tháng 6/2020 cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

[6] Theo kết quả xác minh của Công an xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, có nội dung như sau: “Ông Nguyễn Văn T (sinh năm: 1987) có HKTT: B5/3 tổ 12, ấp 2A, xã Vĩnh Lộc A, Bình Chánh. Hiện nay ông Nguyễn Văn T không thực tế cư trú tại địa chỉ trên. Ông T chuyển đi nơi khác không rõ địa chỉ, chuyển đi từ tháng 3/2020”.

[7] Theo kết quả xác minh tình trạng hôn nhân tại Công văn số 3350/UBND ngày 04 tháng 8 năm 2020 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, có nội dung như sau: “… hiện tại giữa bà Phạm Thị Kim L và ông Nguyễn Văn T không còn chung sống với nhau, đã ly thân từ tháng 6 năm 2020 đến nay, ông T hiện không còn ở địa phương. Trong quá trình chung sống tại địa phương, giữa bà Phạm Thị Kim L với ông Nguyễn Văn T có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do cả hai không hòa hợp trong cuộc sống hôn nhân…”.

[8] Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tình nghĩa vợ chồng như sau:

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

[9] Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án quyết định cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[10] Hội đồng xét xử xét thấy, trong quá trình chung sống giữa bà L và ông T có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do ông T cờ bạc, chơi đá gà gây nợ nần, không lo làm ăn để xây dựng gia đình. Tuy chung sống nhưng vợ chồng lại không quan tâm chăm sóc giúp đỡ nhau, không chia sẻ, thực hiện các công việc gia đình. Mặt khác, ông T đã bỏ nhà đi nơi khác sinh sống từ tháng 6/2020 đến nay. Điều này cho thấy giữa bà L và ông T không còn tình cảm vợ chồng, hôn nhân đã rạn nứt đồng thời cũng thể hiện ý chí của ông T không còn muốn chung sống với bà L mà bỏ mặc cho bà L định đoạt hôn nhân. Do vậy, Hội đồng xét xử xét có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân của bà L và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình nghĩa vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài nên việc chung sống cũng không còn ý nghĩa gì nữa cho nên bà L yêu cầu ly hôn với ông T là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận và phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[11] Về con chung: Bà L xác nhận bà và ông T có 01 (một) con chung tên Nguyễn Phạm Hoàng T, sinh ngày 22/12/2017. Hiện trẻ T đang sống cùng bà L. Khi ly hôn, bà yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ T; bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

[12] Tại Công văn số 3350/UBND ngày 04 tháng 8 năm 2020 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung như sau: “..Về con chung, cả hai có một người con chung tên là Nguyễn Phạm Hoàng T, sinh ngày 22/12/2017. Hiện cháu Thuận đang sống cùng với bà tại B5/3 tổ 12, ấp 2A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh…”

[13] Tại khoản 3 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “….Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

[14] Hội đồng xét xử xét thấy, tại thời điểm xét xử trẻ Nguyễn Phạm Hoàng T dưới 36 tháng tuổi, đang sống cùng với bà L nên tình cảm mẹ con đã gắn kết. Mặt khác, ông T bỏ nhà đi nơi khác sinh sống, từ bỏ quyền chứng minh điều kiện, khả năng chăm sóc con chung, bỏ mặc việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết vấn đề con chung theo yêu cầu của bà L, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác. Do đó, yêu cầu của bà L được chăm sóc, nuôi dưỡng Nguyễn Phạm Hoàng T sau khi ly hôn là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà L về việc bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con; nếu sau này các đương sự có sự tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[14] Về tài sản chung và nợ chung: Do bà Phạm Thị Kim L xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[15] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị Kim L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 19, Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Kim L về việc yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Kim L được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

Giấy chứng nhận kết hôn số số 115, đăng ký ngày 23/7/2016 tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung: Bà Phạm Thị Kim L và ông Nguyễn Văn T có 01 (một) con chung là trẻ Nguyễn Phạm Hoàng T, sinh ngày 22/12/2017.

Giao trẻ Nguyễn Phạm Hoàng T cho bà Phạm Thị Kim L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Nguyễn Văn T.

Ông Nguyễn Văn T được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị Kim L xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị Kim L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà bà Phạm Thị Kim L đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0079551 ngày 22 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Phạm Thị Kim L đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Phạm Thị Kim L và ông Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1191/2020/HNGĐ-ST ngày 15/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1191/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về