Bản án 1189/2020/HNGĐ-ST ngày 15/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1189/2020/HNGĐ-ST NGÀY15/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 525/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 322/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 277/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Hữu T, sinh năm: 1979 Địa chỉ: tổ M, ấp H, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Nguyễn Thị N, sinh năm: 1982 Địa chỉ: tổ M, ấp H, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Ông Lê Hữu T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bà Nguyễn Thị N vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 12 tháng 5 năm 2020, bản tự khai ngày 01 tháng 7 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lê Hữu T trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị N bắt đầu chung sống với nhau vào năm 2003, có tổ chức đám cưới do hai bên tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thịnh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh vào năm 2004. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Đến năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, tình cảm vợ chồng không còn như trước. Do đó, ông bà đã sống ly thân từ tháng 11/2019 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà N.

Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên là Lê Thị Thúy N, sinh ngày 01/02/2005 và Lê Hữu N, sinh ngày 04/11/2011. Khi ly hôn, ông yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ N và trẻ N; ông không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Ngoài ra ông không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.

Bị đơn bà Nguyễn Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án với nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Lê Hữu T khởi kiện xin ly hôn với bà Nguyễn Thị N, đây là tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn bà Nguyễn Thị N có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh do đó căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn ông Lê Hữu T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn bà Nguyễn Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông T và bà N theo quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Hữu T và bà Nguyễn Thị N có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 54, quyển số 02, đăng ký ngày 06/8/2004 tại Ủy ban nhân dân xã Thịnh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa ông Lê Hữu T và bà Nguyễn Thị N là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Bà Nguyễn Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến Tòa án để giải quyết vụ án nên bà N đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình nên bà N phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu xin ly hôn, lời trình bày của ông T và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết vụ án.

[5] Xét yêu cầu ly hôn của ông Lê Hữu T: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lê Hữu T xác nhận thời gian đầu vợ chồng ông chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2019 thì vợ chồng ông bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên cãi vã, tình cảm vợ chồng không còn như trước, ông bà đã sống ly thân từ tháng 11/2019 cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà N.

[6] Theo kết quả xác minh của Công an xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, có nội dung như sau: “Đương sự Nguyễn Thị N, sinh năm: 1982 có đăng ký tạm trú tại địa chỉ: Nhà không số, tổ 11, ấp 1A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 16/8/2012. Hiện nay không còn thực tế ở tại địa chỉ trên và đi đâu không rõ”.

[7] Theo Công văn số 3705/UBND ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh về việc trả lời xác minh tình trạng hôn nhân, có nội dung như sau: “… hiện tại giữa ông Lê Hữu T và bà Nguyễn Thị N không còn chung sống với nhau, đã ly thân từ tháng 02/2020 đến nay. Bà N hiện không còn sinh sống tại địa phương. Trong quá trình chung sống tại địa phương, giữa ông Lê Hữu T với bà Nguyễn Thị N có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do cả hai không hòa hợp trong cuộc sống hôn nhân…”.

[8] Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tình nghĩa vợ chồng như sau:

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

[9] Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án quyết định cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[10] Từ những căn cứ trên cho thấy trong quá trình chung sống giữa ông T và bà N có phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, ông bà đã sống ly thân từ tháng 11/2019 cho đến nay. Mặt khác, bà N đã bỏ nhà đi nơi khác sinh sống nhưng không cung cấp địa chỉ và không liên lạc với ông T chứng tỏ ý chí của bà N không còn muốn tiếp tục chung sống với ông T, tình nghĩa vợ chồng không còn. Điều này cho thấy bà N không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, ông T yêu cầu ly hôn với bà N là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về con chung: Ông T xác nhận ông và bà N có 02 con chung tên Lê Thị Thúy N, sinh ngày 01/02/2005 và Lê Hữu N, sinh ngày 04/11/2011. Khi ly hôn, ông yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ N và trẻ N; ông không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

[12] Tại Công văn số 3705/UBND ngày 18 tháng 8 năm 2020 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung như sau: “..Về con chung, cả hai có hai người con chung tên là Lê Thị Thúy N, sinh ngày 01/02/2005 và Lê Hữu N, sinh ngày 4/11/2012. Hiện hai cháu đang ở cùng ông T tại nhà không số, tổ 11, ấp 1A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh…”

[13] Tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “….Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[14] Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 01 tháng 7 năm 2020, trẻ Lê Thị Thúy N và trẻ Lê Hữu N trình bày nếu ba mẹ ly hôn thì trẻ N và trẻ N đều có nguyện vọng sống cùng với ông T. Do bà N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt, từ bỏ quyền chứng minh điều kiện, khả năng chăm sóc con chung nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết vấn đề con chung theo yêu cầu của ông T, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác. Vì lẽ đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao trẻ Lê Thị Thúy N và trẻ Lê Hữu N cho ông T chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[15] Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của ông T về việc ông không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con; nếu sau này các đương sự có sự tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[14] Về tài sản chung và nợ chung: Do ông T xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[15] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Hữu T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 8, 9, khoản 1 Điều 19, Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu T về việc yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị N.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Hữu T được ly hôn với bà Nguyễn Thị N.

Giấy chứng nhận kết hôn số số 54, quyển số 02, đăng ký ngày 06/8/2004 tại Ủy ban nhân dân xã Thịnh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung: Ông Lê Hữu T và bà Nguyễn Thị N có 02 (hai) con chung tên Lê Thị Thúy N, sinh ngày 01/02/2005 và Lê Hữu N, sinh ngày 04/11/2011.

Giao trẻ Lê Thị Thúy N và Lê Hữu N cho ông Lê Hữu T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con chung đối với bà Nguyễn Thị N.

Bà Nguyễn Thị N được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Ông Lê Hữu T xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Hữu T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà ông Lê Hữu T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0079382 ngày 05 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Lê Hữu T đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Ông Lê Hữu T và bà Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1189/2020/HNGĐ-ST ngày 15/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1189/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về