Bản án 117/2021/HSST ngày 28/06/2021 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 117/2021/HSST NGÀY 28/06/2021 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 28/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 99/2021/HSST ngày 24/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm: 2001; Nơi cư trú: Thôn Hà Lâm, xã Thụy Lâm, Đông Anh, Thành phố Hà Nội ; Nghề nghiệp: thợ mộc; Văn hóa: 8/12;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố : Nguyễn Văn Th; Họ tên mẹ: Đỗ Thị N;

Tiền án, tiền sự : không.

Bị tạm giữ từ ngày 29/1/2021 tại nhà tạm giữ Công an huyện Đông Anh. Có mặt tại phiên tòa.

1.Người bị hại: Cháu Trần Thị Lệ Q sinh ngày 19/12/2005 Trú tại: nhà số 5 Khu Đào xá, phường Phong Khê, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. ( có mặt tại phiên tòa)

2. Đại diện hợp pháp của người bị hại: bà Ngô Thị T, sinh năm 1988 Trú tại: nhà số 5 Khu Đào xá, phường Phong Khê, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh ( có mặt tại phiên tòa)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại: Bà Đỗ Thị H, luật sư thuộc văn phòng luật sư Bảo Tâm, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.( có mặt tại phiên tòa)

NHẬN THẤY

Theo Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Nguyễn Văn T bị truy tố về hành vi phạm tội như sau Ngày 28/01/2021, chị Ngô Thị T (sinh năm: 1988; HKTT: Xóm 1, Đào Xá, Phong Khê, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh) có đơn trình báo và lời khai tại Cơ quan công an huyện Đông Anh về việc: Cháu Trần Thị Lệ Q – Sinh năm: 19/12/2005 (con gái chị T) bị Nguyễn Văn T quan hệ tình dục nhiều lần từ ngày 17/01/2021 đến ngày 27/01/2021 . Chị T đề nghị Cơ quan công an làm rõ hành vi của Nguyễn Văn T và xử lý theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào trình báo, lời khai của chị T, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra làm rõ Nguyễn Văn T nhiều lần có hành vi giao cấu với cháu Trần Thị Lệ Q. Cơ quan điều tra đã tiến hành khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với T về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Nội dung vụ án được xác định:

Khoảng tháng 4/2020, qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Văn T kết bạn và làm quen với cháu Trần Thị Lệ Q (sinh ngày: 19/12/2005; HKTT: Đào Xá, Phong Khê, TP Bắc Ninh, Bắc Ninh). Trong thời gian quen biết nói chuyện, giữa T với cháu Q nảy sinh tình cảm yêu đương. Từ ngày 17/01/2021 đến ngày 27/01/2021, T và cháu Q đã có 11 lần quan hệ tình dục với nhau trên địa bàn thị trấn Đông Anh, Đông Anh, Hà Nội. Cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 14h00 ngày 17/01/2021, T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đeo BKS 29S1-92766 đến khu Đào Xá, Phong Khê, TP Bắc Ninh đón cháu Q rồi đưa đi chơi tại khu vực thị trấn Đông Anh và khu vực Hồ Tây, Hồ Gươm (Hà Nội). Đến khoảng 23h30, do về muộn, sợ bố mẹ mắng nên cả hai thống nhất thuê nhà nghỉ ngủ qua đêm. Khoảng 00h30 ngày 18/01/2021, T chở cháu Q đến nhà nghỉ Phố Vắng tại tổ 36, thị trấn Đông Anh, Đông Anh, Hà Nội gặp chị Phạm Thị P (SN: 1971; HKTT: thôn Đoài, Việt Hùng, Đông Anh, Hà Nội - quản lý nhà nghỉ) thuê phòng nghỉ. T dẫn cháu Q lên phòng 401, đề nghị quan hệ tình dục với Q. Cháu Q đồng ý, tự cởi quần áo nằm trên giường, T tự cởi quần áo rồi quan hệ tình dục xuất tinh vào trong âm đạo cháu Q. Sau khi quan hệ tình dục, T và cháu Q ngủ tại phòng.

Lần thứ 2: Khoảng 12h00 ngày 18/01/2021, ngủ dậy, T tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu, xuất tinh vào trong âm đạo cháu Q. Sau đó, cả hai đi xe máy đến khu vực xã Cổ Loa, xã Tiên Dương thuộc huyện Đông Anh chơi.

Lần thứ 3: Khoảng 20h00 ngày 19/01/2021, T dẫn cháu Q quay về nhà nghỉ Phố Vắng, tiếp tục vào phòng 401 nghỉ qua đêm. T tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu, xuất tinh vào trong âm đạo cháu Q rồi ngủ lại nhà nghỉ Phố Vắng.

Lần thứ 4: Đến 11h00 ngày 20/01/2021, T và cháu Q trả phòng, ra ngoài ăn trưa và đến khu vực Trung Oai, Tiên Dương chơi. Khoảng 22h00, T và cháu Q quay lại thuê phòng 201nhà nghỉ Phố Vắng, T thực hiện hành vi giao cấu, xuất tinh vào trong âm đạo cháu Q, sau đó cả hai ngủ qua đêm tại phòng 201.

Lần thứ 5 và thứ 6: Khoảng 12h00 ngày 21/01/2021, ngủ dậy, T tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu với cháu Q. Sau đó, cả hai ra ngoài mua đồ ăn về phòng 201 nghỉ đến khoảng 17h00 cùng ngày và tiếp tục quan hệ tình dục. Cả hai lần, bị can T đều xuất tinh vào trong âm đạo cháu Q. Đến tối, bị can T thanh toán tiền nhà nghỉ hết 1.130.000 đồng rồi chở cháu Q về nhà anh Phạm Văn Thắng (SN: 2000; trú tại: Hà Lâm 1, Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội) ngủ nhờ qua đêm.

Lần thứ 7: Khoảng 08h00 ngày 22/01/2021, T chở cháu Q đến khu vực Trung Oai, Tiên Dương chơi. Đến khoảng 22h35 cùng ngày, T và cháu Q vào nhà nghỉ Nam Cường tại tổ 12, thị trấn Đông Anh. Bị can T và cháu Q gặp chị Đào Thị Minh Nguyệt (SN: 2002; HKTT: Đội 6, Nghĩa Hải, Nghĩa Hưng, Nam Định - nhân viên nhà nghỉ) thuê phòng 301 ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, bị can T tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu với cháu Q.

Lần thứ 8: T và cháu Q ở tại phòng 301 nhà nghỉ Nam Cường đến sáng ngày 24/01/2021 rồi trả phòng. Cả hai đi chơi đến khoảng 15h45 thì quay lại nhà nghỉ Nam Cường thuê phòng nghỉ. T đưa cháu Q lên phòng, thực hiện hành vi giao cấu với cháu Q. Khoảng 18h00, T trả phòng rồi đưa cháu Q đi ăn tối, sau đó quay về nhà nghỉ Nam Cường thuê phòng 302 ngủ qua đêm.

Lần thứ 9: Sáng ngày 25/01/2021, T trả phòng rồi đưa cháu Q đi chơi đến khoảng 15h15 tiếp tục quay lại nhà nghỉ Nam Cường thuê phòng 301. Tối cùng ngày T thực hiện hành vi giao cấu, xuất tinh vào trong âm đạo cháu Q.

Lần thứ 10 và 11: Từ ngày 26/01 đến 27/01/2021, T và cháu Q ở tại phòng 301 nhà nghỉ Nam Cường, mỗi ngày T thực hiện hành vi giao cấu với cháu Q một lần (khoảng 21h00 ngày 26/01/2021 và 16h00 ngày 27/01/2021).

Do hết tiền tiêu xài, chiều ngày 27/01/2021, bị can T nhắn tin cho anh Đinh Thế Vinh (SN: 1998; trú tại: Đào Thục, Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội) đến trả tiền nhà nghỉ. Anh Vinh nói cho anh Nguyễn Thế Tài (SN: 1993; trú tại: Hà Lâm 1, Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội – là anh rể T) biết việc T đang ở nhà nghỉ Nam Cường. Anh Tài cùng ông Nguyễn Văn Thế (SN: 1958; trú tại: Hà Lâm 1, Thụy Lâm, Đông Anh, Hà Nội – là bố đẻ của T) đến nhà nghỉ, gặp T và cháu Q đang ở khu vực quầy lễ tân. Anh Tài thanh toán tiền nhà nghỉ cho T hết 850.000 đồng sau đó đưa T cùng cháu Q về nhà ngủ. Sáng hôm sau, ông Thế cùng anh Tài đưa Q về nhà tại Đào Xá, Phong Khê, TP Bắc Ninh.

Vật chứng tạm giữ:

- Tạm giữ của Trần Thị Lệ Q: 01 áo phông dài tay màu trắng, cổ áo màu xanh; 01 quần vải màu đen là quần áo của cháu Q, mặc trong quá trình đi cùng bị can T từ ngày 17/01/2021 đến 27/01/2021.

- Tạm giữ của Nguyễn Văn C: 01 áo khoác màu đen; 01 áo dài tay màu hồng là quần áo do bị can T và cháu Q để quên tại nhà nghỉ Nam Cường.

- Tạm giữ của Nguyễn Văn C (chủ hộ kinh doanh nhà nghỉ Nam Cường):

01 USB 16GB ghi lại hình ảnh T và Q đến thuê, trả phòng tại nhà nghỉ Nam Cường Theo Kết luận giám định pháp y tình dục số 176/TTPY ngày 19/6/2021 và Kết luận giám định AND số HT52-21/PY-XN ngày 9/2/2021, kết quả:

- Tại thời điểm giám định trên cơ thể của cháu Trần Thị Lệ Q bình thường không có vết sây sát, rách da chảy máu. Không có điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe.

- Màng trinh có vết rách cũ vị trí 5 giờ và 8 giờ, không có vết rách mới, không có vết sưng nề bầm tím, không chảy máu.

- Siêu âm tử cung phần phụ ngày 28/01/2021 của Bệnh viện 198: Siêu âm tử cung phần phụ bình thường.

- Dấu vết trên tăm bông thu mẫu dịch âm đạo của cháu Trần Thị Lệ Q có ADN nhiễm sắc thể Y, trùng khớp ADN nhiễm sắc thể Y từ mẫu niêm mạc miệng của đối tượng Nguyễn Văn T.

Ngoài ra, cháu Q còn khai nhận đã quan hệ tình dục với một người tên Long (không biết rõ tên tuổi cụ thể, ở Tiên Du, Bắc Ninh) và một người tên Khải (không biết rõ tên tuổi cụ thể, ở Quế Võ, Bắc Ninh). Đối với người tên Long và Khải, không có nhân thân lai lịch cụ thể, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Đối với nhà nghỉ Phố Vắng, ngày 06/5/2021, UBND huyện Đông Anh Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, mức tiền phạt 11.500.000 đồng đối với Phạm Thanh Hằng (SN: 1973; HKTT: tổ 36, thị trấn Đông Anh, Đông Anh, Hà Nội - chủ hộ kinh doanh) về các lỗi vi phạm Cơ sở kinh doanh lưu trú không thực hiện việc thông báo lưu trú với cơ quan Công an theo quy định khi có người đến lưu trú, quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 8 Nghị định 167/2013/NĐ-CP và Hoạt động kinh doanh ngành nghề có điều kiện về an ninh trật tự mà không có giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự, quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

Đối với nhà nghỉ Nam Cường, ngày 06/ 5/2021, Công an huyện Đông Anh Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, mức tiền phạt 1.500.000 đồng đối với Nguyễn Văn C (SN: 1979; HKTT: tổ 12, thị trấn Đông Anh, Đông Anh, Hà Nội - chủ hộ kinh doanh) về lỗi vi phạm Cơ sở kinh doanh lưu trú không thực hiện việc thông báo lưu trú với cơ quan Công an theo quy định khi có người đến lưu trú, quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 8 Nghị định 167/2013/NĐ- CP.

Đối với 01 áo phông dài tay màu trắng, cổ áo màu xanh; 01 quần vải màu đen tạm giữ của cháu Q; 01 áo khoác màu đen; 01 áo dài tay màu hồng tạm giữ của anh Cường là tài sản của cháu T, cháu Q. Ngày 04/5/2021, Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho cháu Q và gia đình cháu T quản lý.

Đối với 01 USB 16GB ghi lại hình ảnh bị can T và Q đến thuê, trả phòng tại nhà nghỉ Nam Cường thu giữ của anh Cường là vật chứng của vụ án (lưu hồ sơ vụ án) chuyển Tòa án phục vụ công tác xét xử.

Về phần dân sự: Chị Ngô Thị T và cháu Trần Thị Lệ Q không có đề nghị bồi thường gì về phần dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Nguyễn Văn T.

Bản cáo trạng số 95/CT-VKS ngày 19/5/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh truy tố Nguyễn Văn T về tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo điểm a khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhek hình phạt.

Đại diện người bị hại trình bày: Không có ý kiến thắc mắc về hành vi phạm tội của bị cáo. Sự việc xảy ra cũng là do lỗi của gia đình mải đi làm lo cuộc sống không quan tâm, giám sát con cái.

Phía gia định bị cáo cũng đã thể hiện thái độ tích cực thay mặt cho bị cáo xin lỗi và bồi thường cho gia đình số tiền 40 triệu đồng.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

Phần bồi thường dân sự không yêu cầu giải quyết nữa.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh sau khi tóm tắt hành vi phạm tôi của bị cáo, đánh giá hành vi của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã nêu.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nhất là phạm tội với trẻ em đối tượng đang được Nhà nước và xã hội đặc biệt quan tâm chăm sóc và bảo vệ. Do đó bảo phải có hình phạt tương xứng để giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình cũng xem xét tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo vì đã có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Tại phiên tòa cũng có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho T Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đề nghị tuyên bố Nguyễn Văn T phạm tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Nguyễn Văn T từ 42 tháng đến 48 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 29.1.2021 Về tang vật: không phải giải quyết Về dân sự: không phải giải quyết.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người bị hại trình bầy ý kiến: Thống nhất quan điểm về tội danh và khung hình phạt áp dụng với bị cáo.

Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm sinh lý, thể chất của người bị hại. Mặc dù việc quan hệ đều là tự nguyện nhưng cũng cần có hình phạt nghiêm đối với bị cáo để giáo dục và phòng ngừa chung.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại thống nhất quan điểm xử lý đối với bị cáo như ý kiến của đại diện người bị hại, không có ý kiến nào khác.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, Bị cáo, người bị hại, đại diện người bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.

Về tố tụng:

XÉT THẤY

Những chứng cứ tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập có trong hồ sơ đã đảm bảo tính hợp pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo tính hợp pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về nội dung vụ án:

Lời khai của bị cáo Q tạii phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ.

Từ đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:

Theo kết luận giám định pháp y tình dục số 176/TTPY ngày 19/6/2021 và Kết luận giám định AND số HT52-21/PY-XN ngày 9/2/2021 của trung tâm pháp y Hà Nội - Dấu vết trên tăm bông thu mẫu dịch âm đạo của cháu Trần Thị Lệ Q có ADN nhiễm sắc thể Y, trùng khớp ADN nhiễm sắc thể Y từ mẫu niêm mạc miệng của đối tượng Nguyễn Văn T.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn T đã có quan hệ tình dục với cháu Trần Thị Lệ Q.

Hµnh vi giao cấu với cháu Trần Thị Lệ Q vào ngày 17/1/2021 đến ngày 27/1/2021 khi cháu Q mới 15 tuổi 30 ngày, mặc dù được sự đồng ý của cháu Q là hành vi giao cấu người trên 13 tuổi dưới 16 tuổi. Bị cáo đã có số lần quan hệ tình dục với người bị hại tổng cộng 11 lần Tội danh và hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 145 BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng.

Hành vi trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội.

Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt tù giam đối với bị cáo để giáo dục và phòng ngừa chung Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự. Đại diện hợp pháp của Người bị hại cũng có đơn và ý kiến trực tiếp tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đại diện gia đình bị cáo đã thay mặt bị cáo bồi thường cho cho cháu Q theo yêu cầu của bị cáo.

Về vật chứng:

Các vật chứng khác cơ quan điều tra đã xử lí nên không xem xét giải quyết nữa.

Về dân sự đại diện người bị hại không có yêu cầu gì về phần tài sản nên không giải quyết.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Đại diện người bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, Người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Văn T phạm tội Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 145, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Luật thi hành án dân sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 42 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 29/1/2021.

Biện pháp tư pháp khác:

Xử lý vật chứng: Không phải giải quyết.

Về dân sự: không phải giải quyết.

Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ 01 USB 16GB ghi lại hình ảnh Nguyễn Văn T và Q đến thuê, trả phòng tại nhà nghỉ Nam Cường.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đại diện người bị hai, người bảo vệ quyền và lợi ích của bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án Thời hiệu thi hành án được thi hành theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử kín, sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

453
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2021/HSST ngày 28/06/2021 về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Số hiệu:117/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về