Bản án 117/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 117/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 115/2020/HSST ngày 18 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 809/2020/QĐXXST-HS ngày 07/9/2020 đối với bị cáo:

Lê Ngọc Đ, sinh ngày 24/9/1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Cx ấp B, xã LN, huyện BH, Tp. Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú ổn định; Nghề nghiệp: Tài xế Grab bike; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông Nguyễn Ngọc SG (sinh năm 1957) và bà Lê Thị T8 (sinh năm 1958, đã chết); Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 03 người con; Vợ là bà Trần Thị N4, sinh năm 1976; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/5/2020 cho đến nay (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị Bích H, sinh năm 1985 (Có mặt).

Địa chỉ: 3x H, Phường N, Quận S, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ông Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1986 (Có mặt).

Địa chỉ: 5x T, phường BA, quận BN, Tp. Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng:

1. Ông Huỳnh Trường S, sinh năm 1984 (Vắng mặt). Địa chỉ: 1x, xã TN, huyện HN, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ông Trần Hoàng D, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

Địa chỉ: 5x, phường TAN, Quận MH, Tp. Hồ Chí Minh.

3. Ông Phạm Hữu N6, sinh năm 1997 (Vắng mặt).

Địa chỉ: 73/10 TX, phường C, Quận M , Tp. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 10 phút ngày 13/5/2020, do nghiện ma túy nên Lê Ngọc Đ điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại Nouvo, biển số 59H1- 254.xx đến trước nhà số 1x BN, Phường PL, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh mua 03 gói ma túy của 01 thanh niên chưa rõ lai lịch với giá 270.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, Đ điều khiển xe mô tô đến công viên PCN, trước địa chỉ 2y NK, Phường NT, Quận M lấy ma túy sử dụng. Tại đây, Đ bỏ 02 gói ma túy vào vỏ bao thuốc lá hiệu Jet rồi cất trong hộc xe phía trước, bên phải của xe mô tô, gói ma túy còn lại thì Đ cầm trên tay phải, chuẩn bị sử dụng thì bị các ông Trần Hoàng D, Huỳnh Trường S, Phạm Hữu N6 là Cán bộ Công an và Bảo vệ dân phố Phường Nguyễn Cư Trinh đang tuần tra trên địa bàn, phát hiện Đ có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra, thu giữ 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng Đ cầm trên tay phải và 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng đựng bên trong gói thuốc lá Jet ở hộc đựng đồ phía trước, bên phải xe (Đ khai là ma túy), đồng thời thu giữ được 01 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng (Đ khai để sử dụng ma túy) nên tổ công tác đã tiến hành thu giữ và giao vật chứng cùng Lê Ngọc Đ cho Công an Phường Nguyễn Cư Trinh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 thụ lý theo thẩm quyền.

Theo bản Kết luận giám định số 818/KLGD-H ngày 20/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, 02 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký Lê Ngọc Đ và hình dấu Công an Phường NT, Quận M, bên trong có 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng và 02 gói nylon chưa chất bột màu trắng để trong gói thuốc lá Jet là ma túy ở thể rắn loại Heroine, có tổng khối lượng là 0,2602 gam.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Lê Ngọc Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của Đ phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, từ đó đủ căn cứ chứng cứ chứng minh Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như trên.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Lê Ngọc Đ, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch nên chưa xử lý, khi nào đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Vật chứng thu giữ:

- 02 gói niêm phong bên trong chứa ma túy ở thể rắn, loại Heroine có tổng khối lượng 0,2602 gam;

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Nouvo, biển số: 59H1-254.31, số khung: RLCN1DB10CY079227, số máy: 1DB1-079237, qua xác minh do chị Lê Thị Bích H đứng tên đăng ký. Ngày 13/5/2020, Đ mượn ông Nguyễn Ngọc L (chồng bà H) xe mô tô trên để sử dụng thì bị bắt, ông L và bà H không biết Đ mượn xe để đi mua ma túy;

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số Imei 1: 356446087908559/01, số Imei 2: 356447087908557/01;

- 01 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng;

Hiện tất cả vật chứng đang nhập kho tại Công an Quận 1.

Tại Bản cáo trạng số 116/CT-VKSQ1 ngày 14 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Ngọc Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lê Ngọc Đ từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, đồng thời áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng để sung vào công quỹ Nhà nước.

- Về xử lý vật chứng: Các vật chứng đề nghị xử lý theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định vào khoảng 10 giờ 10 phút ngày 13/5/2020, tại khu vực công viên PCN, trước địa chỉ 2y NK, Phường NT, Quận M, Lê Ngọc Đ có hành vi cất giữ 0,2602 gam Heroin nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Do đó, hành vi của bị cáo Đ đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Đ, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch nên đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận 1 tiếp tục, điều tra xử lý sau.

[3]. Ma túy là hiểm họa của toàn xã hội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý đối với các chất ma túy, để thỏa mãn cơn nghiện của bản thân, làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người sử dụng cũng như là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác, xâm phạm đến trật tự an toàn của xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái nhưng vẫn cố tình thực hiện. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe đối với bản thân bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 về việc cần thiết phải áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng là có cơ sở chấp nhận.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lần đầu phạm tội, chưa có tiền án tiền sự nên khi lượng hình Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. [5]. Về xử lý vật chứng:

- 02 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 818/20 Q1 gói 1, gói 2 các chữ ký ghi tên Trần Đình H3, Vũ Thị Ánh T1 bên trong chứa ma túy ở thể rắn, loại Heroine có tổng khối lượng 0,2602 gam, sau giám định là 0,1478 gam và 01 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng thu giữ của Lê Ngọc Đ xét thấy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Nouvo, biển số: 59H1-254.31, số khung: RLCN1DB10CY079227, số máy: 1DB1-079237 thu giữ của Lê Ngọc Đ. Xét thấy chiếc xe do bà Lê Thị Bích H đứng tên đăng ký sở hữu. Ngày 13/5/2020, Đ mượn ông Nguyễn Ngọc L (chồng bà Huyền) xe mô tô trên để sử dụng thì bị bắt, ông Lợi và bà Huyền không biết Đ mượn xe để đi mua ma túy. Do vậy, cần trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu là bà Lê Thị Bích H.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số Imei 1: 356446087908559/01, số Imei 2: 356447087908557/01 thu giữ của Lê Ngọc Đ, xét thấy không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho Lê Ngọc Đ.

[6]. Án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng bị cáo chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt Lê Ngọc Đ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 13/5/2020.

Phạt bị cáo số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng để nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy 02 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 818/20 Q1 gói 1, gói 2 các chữ ký ghi tên Trần Đình H3, Vũ Thị Ánh T1 bên trong chứa ma túy ở thể rắn, loại Heroine có tổng khối lượng 0,2602 gam, sau giám định là 0,1478 gam.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 146/20-PNK ngày 03/8/2020 của Công an Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh);

- Tịch thu tiêu hủy 01 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng;

- Trả lại cho chủ sở hữu bà Lê Thị Bích H 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Nouvo, biển số: 59H1-254.31, số khung: RLCN1DB10CY079227, số máy: 1DB1- 079237;

- Trả lại cho Lê Ngọc Đ 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số Imei 1: 356446087908559/01, số Imei 2: 356447087908557/01 nhưng trước mắt cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 107/20-PNK ngày 29/7/2020 của Công an Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh);

- Áp dụng Điều 135; 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Ngọc Đ phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Áp dụng các Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:117/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về