Bản án 117/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LX, TỈNH AG

BẢN ÁN 117/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố LX, tỉnh AG xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 237/2020/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 264/2020/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Kim P, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Số 611/11, T 16, ấp MK2, xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG.

Bị đơn: Ông Bùi Ngọc N, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Số 219/1B đường TNH (nay là đường ĐD), k6, phường ML, thành phố LX, tỉnh AG.

(Tại phiên tòa bà P vắng mặt (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt); ông N vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06 tháng 5 năm 2020, trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Phạm Thị Kim P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Năm 2003, bà P và ông N quen biết và tự nguyện đi đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG. Nhưng trong quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẩn, bất đồng quan điểm sống. Nhận thấy tình cảm không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà P khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông N.

- Về con chung: Bà P và ông N có một con chung tên Bùi Phạm Hoàng H, sinh ngày 09 tháng 12 năm 2001 đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà P và ông N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, ông Bùi Ngọc N vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa, bà Phạm Thị Kim P có đơn xét xử vắng mặt ngày 06 tháng 8 năm 2020; bị đơn ông Bùi Ngọc N vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến cung cấp cho Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố LX:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố LX thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách đương sự, quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm như: Nguyên tắc xét xử, thư ký phiên tòa, sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa. Đối với nguyên đơn bà P có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt là phù hợp quy định pháp luật. Riêng bị đơn ông N vắng mặt không đến Tòa án giải quyết là không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của ông và phải chịu hậu quả theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự có trong hồ sơ vụ án: Bà P và ông N có đăng ký kết hôn hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Nhưng trong quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Nhận thấy tình cảm không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà P khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông N. Riêng, ông N mặc dù đã được Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ để tham gia các phiên hòa giải, công khai chứng cứ nhưng ông N vắng không lý do cho thấy ông N không quan tâm việc hàn gắn gia đình với bà P. Xét thấy, hiện tại quan hệ hôn nhân giữa bà P và ông N không thể tiếp tục thực hiện tình nghĩa vợ chồng theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà P theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình. Về con chung, có một con chung tên Bùi Phạm Hoàng H, sinh ngày 09/12/2001 đã trưởng thành có quyền tự mình lựa chọn nên không cần xem xét. Về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không cần xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố LX, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà P và ông N có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG; bà P khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông N; ông N hiện đang cư trú trên địa bàn thành phố LX, tỉnh AG. Nên căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa bà P và ông N là “tranh chấp ly hôn” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố LX, tỉnh AG.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay bà Phạm Thị Kim P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đơn đề ngày 06 tháng 8 năm 2020. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà P là phù hợp quy định pháp luật.

Riêng đối với ông Bùi Ngọc N, Tòa án đã tiến hành tống đạt và niêm yết công khai các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Bùi Ngọc N không đến Tòa và vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông N.

[3] Hội đồng xét xử nhận định về nội dung vụ án: Bà Phạm Thị Kim P và ông Bùi Ngọc N trên cơ sở tự nguyện của cả hai, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MHH, thành phố LX, tỉnh AG theo Giấy chứng nhận kết hôn số 11 ngày 19 tháng 02 năm 2003, được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Nay, bà P và ông N phát sinh mâu thuẫn, bà P xin ly hôn nên Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2010 thì sống ly thân cho đến nay. Nguyên nhân, do vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Trong thời gian sống chung bà P luôn tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng, hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông N.

[5] Xét, hôn nhân giữa bà P và ông N mâu thuẫn phát sinh ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Hiện nay, bà P không còn tình cảm với ông N, không yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ khó khăn trong cuộc sống và chăm lo hạnh phúc gia đình, chăm lo con cái. Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, ông N vắng mặt, không trình ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà P tức là ông đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của ông đã được pháp luật quy định nên không có căn cứ xét yêu cầu của ông N. Nhận thấy, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nhưng vợ chồng đã ly thân từ năm 2010 đến nay. Do đó, căn cứ vào Điều 19 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của bà P được ly hôn với ông N.

[6] Về quan hệ con chung: Trong thời gian sống chung vợ chồng có một con chung tên Bùi Phạm Hoàng H, sinh ngày 09 tháng 12 năm 2001 (nam). Hiện tại đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét đến.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà P cho rằng bà và ông N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông N cũng không có ý kiến cung cấp cho Tòa án về vấn đề này. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, bà P nộp tiền án phí theo quy định pháp luật. Ông N không nộp án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

Điều 8, Điều 9, Điều 19, Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khon 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 179; Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Khoản 3 Điều 228, Điều 233, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 9, Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Kim P được ly hôn với ông Bùi Ngọc N.

Về quan hệ con chung: Bà P và ông N có một con chung tên Bùi Phạm Hoàng H, sinh ngày 09 tháng 12 năm 2001 đã thành niên, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị Kim P và ông Bùi Ngọc N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Phạm Thị Kim P nộp số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), trừ vào 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000948 ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố LX, tỉnh AG.

Bà Phạm Thị Kim P, ông Bùi Ngọc N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú của bà P, ông N.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:117/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về