Bản án 117/2020/HNGĐ-ST ngày 15/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 117/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 268/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2020/QĐXX-ST ngày 24 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T; địa chỉ: Cụm 4, Khu 9, xã V, huyện V, thành phố Hải Phòng; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Tạ Văn Ng; địa chỉ: Khu A2, xã K, huyện Tỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 31/03/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị Vũ Thị T (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Tỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng số 11 ngày 22/02/2015. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa Tận hạnh Pc đến năm 2018 thì phát sinh mâu Tẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu Tẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau và có lần anh Ng đã đánh chị T. Do mâu Tẫn, vợ chồng chị hiện đã sống ly thân nhau. Nay, chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Tạ Văn Ng.

Về con chung: Chị Vũ Thị T khai: Chị và anh Tạ Văn Ng có 01 con là Tạ Quang P, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2015. Hiện chị T đang nuôi con. Trường hợp ly hôn, chị T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T yêu cầu anh Ng phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị T mỗi tháng 3.00.000 đồng kể từ tháng 8 năm 2020 cho đến khi con Tạ Quang P đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Chị Vũ Thị T khai: Chị và anh Tạ Văn Ng không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 28 tháng 03 năm 2019 và lời trình khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như lời khai tại phiên tòa,anh Tạ Văn Ng (bị đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Tạ Văn Ng thừa nhận lời khai của chị T về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu Tẫn vợ chồng là đúng. Nay chị T xin ly hôn, quan điểm của anh Ng không đồng ý ly hôn vì anh Ng cho rằng lý do ly hôn là chưa chính đáng.

Về con chung: Anh Tạ Văn Ng khai: Anh Ng và chị Vũ Thị T có 01 con chung là Tạ Quang P, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2015. Trường hợp ly hôn, anh Ng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Tạ Văn Ng khai: Trường hợp ly hôn anh Ng không yêu cầu chị Vũ Thị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh Tạ Văn Ng khai: Anh và chị T không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T và anh Ng được ly hôn. Về con chung: Chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng có 01 con chung là Tạ Quang P, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2015. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của các đương sự, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho anh Tạ Văn Ng trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Tạ Quang P cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Tạ Văn Ng không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về tài sản chung, các đương sự thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về nghĩa vụ nộp án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng được xác lập vào năm 2015 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa Tận hạnh Pc đến năm 2018 thì phát sinh mâu Tẫn. Nguyên nhân mâu Tẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Do mâu Tẫn nên chị T và anh Ng hiện đã sống ly thân. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Ng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Vũ Thị T được ly hôn anh Tạ Văn Ng.

[2] Về con chung: Chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng có 01 con chung là Tạ Quang P, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2015. Khi ly hôn, chị T và anh Ng đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện: Kể từ khi sống ly thân, chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, chị T có công việc và T nhập ổn định. Quá trình giải quyết, anh Ng không cung cấp được chứng cứ chứng minh về điều kiện nuôi con. Vì vậy giao cho chị Vũ Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Tạ Quang P, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Tạ Văn Ng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với chị Vũ Thị T mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu đồng) kể từ tháng 8 năm 2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức T, miễn, giảm, T, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Vũ Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, anh Tạ Văn Ng phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức T, miễn, giảm, T, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng.

2. Về con chung: Giao cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Tạ Quang P, sinh ngày 27 tháng 02 năm 2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Tạ Văn Ng có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung với chị Vũ Thị T mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu đồng) kể từ tháng 8 năm 2020 cho đến khi con Tạ Quang P đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị T đã nộp theo biên lai T tạm ứng án phí số 0000805 ngày 24 tháng 4 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tỷ Nguyên, chị Vũ Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Anh Tạ Văn Ng phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Chị Vũ Thị T và anh Tạ Văn Ng có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2020/HNGĐ-ST ngày 15/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:117/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về