Bản án 117/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 117/2019/HS-ST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 110/2019/HS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 116/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Giang Bích N, sinh ngày 09/10/1993 tại Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn V, xã M, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giang Văn P và bà Nguyễn Thị T; chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2019 cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 8 giờ 45 phút ngày 15/6/2019, tại khu vực trước cổng khách sạn H thuộc tổ dân phố L, phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc.Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và bắt quả tang Giang Bích N có hành vi mang ma túy đi bán cho các đối tượng nghiện kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ.

Tang vật thu giữ gồm có: Thu giữ trên người N 01 túi xách màu đen trắng có quai đeo, bên trong túi có 01 túi nilon nhỏ màu trắng có chứa hạt tinh thể dạng đá được cơ quan công an niêm phong vào 01 bì thư có ký hiệu A1, 01 coong thủy tinh, 03 ống hút nhựa và số tiền 100.000đ.

Tại bản kết luận giám định số: 1100/KLGĐ ngày 20/6/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “1. Tinh thể dạng đá màu trắng có trong mẫu kí hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,7944 gam, khối lượng Methamphetamine trong 0,7944 gam mẫu là 0,6098 gam.

Về nguồn gốc ma túy thu giữ, Giang Bích N khai nhận mua của đối tượng tên là T là bạn quen biết trước đó với giá 1.000.000đ. Mục đích N mua gói ma túy để về chia làm 04 gói nhỏ bán cho các đối tượng nghiện với giá 500.000đ/gói để kiếm lời, tuy nhiên sau khi mua được ma túy chưa kịp bán thì bị bắt giữ.

Ti Cáo trạng số: 115/CT-VKSTPVY ngày 11/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố bị cáo Giang Bích N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Ti Cơ quan điều tra bị cáo Giang Bích N khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

Ti phiên tòa, bị cáo Giang Bích N vẫn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Ngưi làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Giang Bích N từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm tù 09 tháng tù. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 0,4865 gam ma túy và toàn bộ bao gói ma túy còn lại sau giám định; 01 túi xách có quai đeo màu đen trắng đã cũ. Trả lại cho N 100.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Giang Bích N tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vât đa thu giư, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 8 giờ 45 phút ngày 15/6/2019, tại khu vực trước cổng khách sạn H thuộc tổ dân phố L, phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc.Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và bắt quả tang Giang Bích N có hành vi mang ma túy đi bán cho các đối tượng nghiện kiếm lời nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ. Tang vật thu giữ là 01 gói nilon bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng, được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,7944 gam, khối lượng Methamphetamine trong 0,7944 gam mẫu là 0,6098 gam.

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Giang Bích N đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt tù từ 02 đến 07 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hôi đông xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức sự nguy hiểm của ma túy cũng như hệ lụy của nó mạng lại, nhưng vì hám lời bị cáo bất chấp hậu quả thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, do đó cần xử phạt bị cáo hình phạt tù giam như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo không có tài sản và nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Đối với người nam giới tên T bán ma túy cho bị cáo N. Quá trình điều tra N khai quen biết T qua mối quan hệ trên xã hội, không biết họ, tên tuổi thật, địa chỉ của người này ở đâu, không biết rõ nhân thân của người này nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là đúng pháp luật.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma túy và bao gói ma túy hoàn lại sau giám định, 01 túi xách có quai màu đen trắng đã cũ cần tịch thu để tiêu hủy; đối với số tiền 100.000đ đã thu giữ của bị cáo N đây là số tiền thu nhập hợp pháp của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đi với 01 coong và 03 ông hút bằng nhựa là đồ vật T cho N để sử dụng, tuy nhiên do cơ quan điều tra chưa điều tra làm rõ được đối tượng tên là T nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Giang Bích N 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 15/6/2019).

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 0,4865 gam ma túy và toàn bộ bao gói ma túy còn lại sau giám định; 01 túi xách có quai đeo màu đen trắng đã cũ. Trả lại cho N 100.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/10/2019).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Giang Bích N phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:117/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về