Bản án 117/2018/HS-ST ngày 11/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 117/2018/HS-ST NGÀY 11/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 11 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 120/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Thị D (tên gọi khác: Huyền); Sinh ngày 26 tháng 9 năm 1982 tại Sơn La; Nơi cư trú: tổ 1, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Công H, sinh năm 1957; Con bà: Mai Thị O, sinh năm 1956; Bị cáo chưa có chồng con; Tiền án: không (tuy nhiên bị cáo đã được xóa án tích về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và Mua bán phép chất ma túy); Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/3/2018 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 20 phút ngày 14/3/2018, Bùi Thị D đi bộ từ nhà tại tổ 1, phường Chiềng Lề đến khu vực bản Cọ, phường Chiềng An, thành phố Sơn La tìm mua ma túy về sử dụng. Dung gặp và mua của một người nam giới không biết tên, tuổi và địa chỉ 01 gói ma túy với giá 350.000,đ (ba trăm năm mươi ngàn đồng), D ngậm số ma túy trên vào miệng rồi đi tìm nơi sử dụng, khi đến khu vực tổ 3, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La thì bị Công an thành phố Sơn La phát hiện, lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Cơ quan Công an thành phố Sơn La thu giữ được vật chứng gồm: 01 gói giấy nilon màu hồng bên trong có ma túy (theo lời khai của Dung là Heroin); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng kèm theo 01 sim số thuê bao 01693895763; 01 CMTND mang tên Bùi Thị D do CA tỉnh Sơn La cấp ngày 14/5/2013.

Ngày 14/3/2018, Công an thành phố Sơn La tiến hành cân tịnh vật chứng, kết quả 01 gói ma túy thu giữ của bị cáo Bùi Thị D có khối lượng 0,18 gam, lấy 0,09 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu D1, còn lại 0,09 gam lưu kho vật chứng ký hiệu D2.

Tại Kết luận giám định số 386/KLMT ngày 20/3/2018 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là ma túy, loại chất Heroin; Không hoàn lại mẫu vật gửi giám định”.

Tổng trọng lượng ma túy thu giữ của bị cáo Bùi Thị D là 0,18 gam Heroin.

Tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKSTP ngày 27 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Bùi Thị D về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Thị D khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Thị D phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Bùi Thị D từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự do bị cáo là người mắc nghiện ma túy, thu nhập thấp, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị, bị cáo không có tài sản riêng.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01(một) chiếc phong bì KTHS Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Bùi Thị D tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 08/5/2018”, gồm 01 vỏ phong bì niêm phong đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng, mẫu lưu kho ký hiệu D2 có khối lượng 0,09 gam; Tuyên trả bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng kèm theo 01 sim số thuê bao 01693895763; 01 CMTND mang tên Bùi Thị D do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 14/5/2013 theo điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo phải nộp 200.000,đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Ý kiến của bị cáo nhất trí như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo tại phiên toà. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào Nghị án, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất trong khung hình phạt để sớm được trở về với gia đình và cộng đồng và làm ăn lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Vào ngày 14/3/2018, Bùi Thị D đã có hành vi Tàng trữ trái phép 0,18 gam Heroin, mục đích sử dụng cho bản thân, thì bị tổ công tác Công thành phố Sơn La kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Bùi Thị D đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên tòa của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

1. “Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai 01 năm đến 05 năm ”:

a)…………

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Bùi Thị D với số lượng tàng trữ ma túy không lớn, mục đích tàng trữ ma tuý là để sử dụng cho bản thân, do bị cáo là người đã và đang bị mắc nghiện ma túy. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do cố ý. Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm phát sinh, lây lan các tệ nạn xã hội. Hành vi đó là nguy hiểm, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo đã được giáo dục, biết rõ tác hại của ma tuý đối với đời sống con người và xã hội, song vẫn cố tình phạm tội, nên cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự để xem xét, quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

Xét nhân thân bị cáo Bùi Thị D: Có nhân thân xấu, đã hai lần bị TAND xét xử về tội “Tàng trữ trái trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nay đã được xóa án tích, bị cáo không có tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, song cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung, nhất là công tác phòng, chống tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3] Ngoài hình phạt chính là phạt tù, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Song, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập, là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc 0,18 gam ma túy, bị cáo khai nhận do bị cáo mua của người không biết tuổi và địa chỉ nên không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

[4] Về vật chứng vụ án: Cần tuyên tiêu hủy 01 (một) chiếc phong bì KTHS Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Bùi Thị D tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 08/5/2018”, gồm 01 vỏ phong bì niêm phong đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng, mẫu lưu kho ký hiệu D2 có khối lượng 0,09 gam; Tuyên trả bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng kèm theo 01 sim số thuê bao 01693895763; 01 CMTND mang tên Bùi Thị D do CA tỉnh Sơn La cấp ngày 14/5/2013 theo điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Thị D (Tên gọi khác: Huyền) phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Bùi Thị D (Tên gọi khác: Huyền) 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 14/3/2018).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tuyên tiêu hủy 01 (một) chiếc phong bì KTHS Công an tỉnh Sơn La còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Bùi Thị D tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 08/5/2018”, gồm 01 vỏ phong bì niêm phong đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng, mẫu lưu kho ký hiệu D2 có khối lượng 0,09 gam;

Tuyên trả bị cáo Bùi Thị D (Tên gọi khác: Huyền) 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng kèm theo 01 sim số thuê bao 01693895763 và 01 Chứng minh thư nhân dân mang tên Bùi Thị D (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2018 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Buộc bị cáo Bùi Thị D (Tên gọi khác: Huyền) phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000,đ (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Thị D (Tên gọi khác: Huyền) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2018/HS-ST ngày 11/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:117/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về