Bản án 1162/2019/DS-PT ngày 29/11/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1162/2019/DS-PT NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 25 và ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 487/2019/TLPT-DS ngày 09/10/2019 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 38/2019/DS-ST ngày 20/08/2019 của Tòa án nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5407/2019/QĐ - PT ngày 04 tháng 11 năm 2019 và Quyết định tạm ngừng phiên toà số 11031/2019/QĐ- PT ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa:

Nguyên đơn: Ông Lê Quốc S, sinh năm 1961. (Có mặt) Địa chỉ: 169/46D2 LDC, phường BA, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

- Bà Nguyễn Thanh T.R, sinh năm 1990. (Có mặt) Địa chỉ: 287 Tổ B Khóm LC, phường LC, thị xã TC, tỉnh An Giang.

(Là người đại diện theo ủy quyền – Văn bản ủy quyền ngày 17/10/2019) - Bà Phạm Thị Thanh S, sinh năm 1974. (Có mặt) (Là người đại diện theo ủy quyền – Văn bản ủy quyền ngày 26/11/2019) Minh.

Bị đơn: Ông Ngô Tuấn Kh, sinh năm 1979. (Có mặt) Địa chỉ: 30C, Đường số 35, phường BTT, Quận H, Thành phố Hồ Chí Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Ngô Thị Liễu C, sinh năm 1963. (Có mặt) Địa chỉ: 169/46D2 LDC, phường BA, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ủy ban nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trụ sở: 168 Trương VB, phường TML, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân Quận H:

Bà Võ Lục kim D. (Có mặt) (Là người đại diện theo ủy quyền – Văn bản ủy quyền ngày 29/6/2017) - Ông Ngô Trung H, sinh năm 1966. (Có mặt) Địa chỉ: 5.04 S, Khu SA, phường ALD, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người làm chứng:

- Ông Trần Văn A, sinh năm 1964. (Vắng mặt)

- Bà Trần Ngọc H, sinh năm 1969. (Có mặt)

Cùng địa chỉ: 397 LDC, KP 5, phường AP, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Trần Văn N, sinh năm 1967. (Có mặt) Địa chỉ: 69/22 Đường số 5, phường BTT, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Minh.

- Ông Chu Đức Th, sinh năm 1971. (Văng mặt) Địa chỉ: Số 208/1B LNN, Phường MM, Quận N, Thành phố Hồ Chí

- Bà Đinh Thị Quỳnh Ch, sinh năm 1971. (Văng mặt) Hộ khẩu thường trú: Lầu 1, số 540 Nguyễn Trãi, Phường 8, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ: 7380 No.2Rd., Richmond BC V7C3L9, Canada.

- Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1955. (Văng mặt) Địa chỉ: Căn hộ A23.03 Chung cư Hoàng Anh River View, số 37 Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo Điền, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn – ông Lê Quốc S.

- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện, Đơn khởi kiện bổ sung, trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn - ông Lê Quốc S trình bày:

Vào khoảng đầu năm 1997, ông Ngô Trung H là em vợ ông có giới thiệu ông mua 01 (một) thửa đất ruộng có diện tích khoảng 10.000m2 tại huyện T.D (cũ), cùng thời điểm đó ông H dẫn ông đến gặp các chủ đất là ông Trần Văn N, ông Trần Văn A và bà Trần Ngọc H. Sau khi xem xong, ông cùng vợ là bà Ngô Thị Liễu C (chị gái ông H) trực tiếp đi thương lượng việc mua bán và thống nhất sẽ mua phần đất diện tích đất khoảng 8.000 m2 (bao gồm phần diện tích đất của ông Võ Văn Ng và ông Phan Văn T) với giá 07 lượng vàng/1.000m2.

Ngày 04/02/1997, ông Phan Văn T, ông Trần Văn C (là cha của ông A, ông N, bà H) và ông lập hợp đồng mua bán giấy tay thửa đất (chưa có số thửa) với diện tích là 8.000 m2. Ngay khi ký hợp đồng, ông có đặt cọc cho ông Trần Văn N (do ông C bị bệnh nặng nên ông N nhận thay), ông Phan Văn T và ông Võ Văn Ng mỗi người 02 (hai) lượng vàng, tổng cộng là 06 (sáu) lượng vàng 9,6 tuổi. Sau đó, gia đình ông T, ông Ngh không tiếp tục bán nữa, riêng gia đình ông A vẫn đồng ý tiếp tục bán phần đất diện tích 2.782 m2 ca mình với giá 07 (bảy) lượng vàng 9,6 tuổi/1.000m2, tổng cộng là 16 (mười sáu) lượng vàng. Riêng 06 (sáu) lượngvàng 9,6 tuổi đã đặt cọc theo hợp đồng tay ngày 04/02/1997 giữa ông Phan Văn T, ông Trần Văn C và ông được chuyển sang hợp đồng mua bán giữa ông, bà Đinh Thị Quỳnh Ch và gia đình ông Trần Văn A. Gia đình ông A, ông T, ông Ngh đã tự giải quyết với nhau về số vàng đã nhận cọc vào ngày 04/02/1997, các bên không tranh chấp nên hợp đồng ngày 04/02/1997 đã chấm dứt.

Ngày16/03/1997, tại nhà ông Ngô Trung H, ông, gia đình ông A lập hợp đồng mua bán phần đất có diện tích 2.782 m2 thuộc thửa 395, tờ bản đồ số 2, xã Bt, huyện T.D (cũ) với giá 16 (mười sáu) lượng vàng 9,6 tuổi. Cùng ngày ký hợp đồng, ông thanh toán tiếp cho ông A và ông N 10 (mười) lượng vàng 9,6 tuổi, tổng cộng ông đã giao cho nhà ông A là 16 (mười sáu) lượng vàng 9,6 tuổi. Người giao vàng là bà Ngô Thị Liễu C vợ ông. Tại thời điểm ký hợp đồng và giao vàng có mặt ông, Bà C, ông A, ông N và bà Nguyễn Thị Thu H nhưng ông không biết bà H là ai. Bà C giao vàng cho ông A xong là mọi việc hoàn tất, còn việc ông A có trả vàng cho bà H không thì ông không quan tâm và cũng không liên quan.

Trong phần diện tích đất mua chung này, phần đất của ông có diện tích 1.782m2 và bà Ch là 1.000 m2. Quá trình thương lượng mua bán, trả tiền, bà Đinh Thị Quỳnh Ch không có mặt. Sau khi việc mua bán hoàn tất, ông đã nhận đất, ông và bà Ch tiến hành san lấp mặt bằng và mỗi người cất 01 căn nhà với diện tích khoảng 60 - 70m2. Sau đó, ông có nhờ ông H làm giấy tờ, hộ khẩu đối với phần đất đã mua. Khi làm giấy tờ, ông H có báo cho ông biết mỗi nhà bị phạt 10.000.000(mười triệu) đồngvì thủ tục mua bán không hợp lệ nên ông đem tiền đi nộp nhưng ông H nói phần đất này để cho ông Ngô Tuấn Kh đứng tên và ông cũng đồng ý, do đó ông đưa tiền cho ông Kh thay ông đi nộp. Sau khi nộp phạt xong, ông Kh đưa cho ông biên lai nộp phạt. Năm 1999, phần đất này được cấp giấy chứng nhận và ông H là người đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông và vợ chồng ông giữ từ năm 1999 đến nay, kèm theo đó là các biên lai nộp thuế ngày 30/10/2012 với nội dung thu thuế nợ đọng năm 2011 trở về trước.

Năm 2012, cha ruột của Ngô Tuấn Kh là ông Ngô Thế D (cũng là em trai Bà C) đến nhà ông thông báo cho ông biết phần diện tích đất này bị giải tỏa nên yêu cầu ông photocopy Giấy chứng nhận để nộp cho Ban bồi thường giải phóng mặt bằng Quận H. Ông đưa bản chính Giấy chứng nhận cho ông D đi photocopy sau đó ông D đưa lại bản chính cho ông, bản photocopy thì ông D đưa cho ông Kh đi nộp cho Ban bồi thường giải phóng mặt bằng Quận H. Ông D nói ông H đòi số tiền 800.000.000 (tám trăm triệu) đồng và cho ông Kh bao nhiêu thì cho, ông đồng ý với ý kiến của này nhưng khoảng 2 - 3 ngày sau, ông H và ông Kh tuyên bố sẽ lấy hết toàn bộ số tiền đền bù của phần đất trên. Vì vậy, ông đã làm đơn tố cáo sự việc đến Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, phía Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh có văn bản trả lời chưa đủ yếu tố để khởi tố vụ án hình sự. Ông không có tài liệu, chứng cứ chứng minh việc ông có nhờ ông Ngô Tuấn Kh đứng tên giùm phần diện tích đất nói trên.

Ông xác định khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

Xác định phần đất với diện tích là 1.743 m2 thuộc thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 do Ủy ban nhân dân Quận H cấp ngày 26/10/1999 cho ông Ngô Tuấn Kh đứng tên là của ông Lê Quốc S và bà Ngô Thị Liễu C, ông S và Bà C được hưởng toàn bộ tiền đền bù, hỗ trợ thiệt hại đối với phần đất trên.

Bị đơn ông Ngô Tuấn Kh trình bày:

Toàn bộ phần đất có diện tích 2.000 m2 tại xã Bt, huyện T.D (nay là ấp AP, phường AP, Quận H) là của ông Ngô Trung H (chú ruột của ông) mua của ông Trần Văn A, Trần Văn N, bà Trần Ngọc H và để ông đứng tên. Sau khi mua phần đất trên, ông H có san lấp, xây 01 chòi lá trên phần đất này. Năm 1999, ông được Ủy ban nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 ngày 26/10/1999 với diện tích được công nhận là 1.743 m2, phần diện tích ông đang sử dụng còn lại thuộc rạch nên không được công nhận. Sau khi được cấp giấy, ông đăng ký hộ khẩu và được cấp số nhà 147V, Dường Đỗ Xuân Hợp, phường AP, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh và sinh sống tại địa chỉ này từ đó cho đến khoảng năm 2002- 2003 thì ông không còn sinh sống tại đây nữa. Năm 2005, ông chơi đá gà thua độ ông S nên có vay ông S số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng và thế chấp toàn bộ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên cho ông S. Việc vay nợ cũng như việc thế chấp trên không làm giấy tờ vì do cả hai tin tưởng xem nhau như người trong nhà.

Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông S.

Đối với số tiền vay nợ nói trên, ông đồng ý trả nợ. Phía ông S cứ đưa ra con số cụ thể về tiền nợ gốc, nợ lãi trong thời gian vay nợ.

Toàn bộ phần nhà đất này là tài sản riêng của ông, không liên quan đến vợ ông là bà Thái Mỹ C bởi đây là tài sản do ông H (chú ông) cho ông trước khi lấy bà C.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Liễu C trình bày:

Bà thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của ông S. Ngoài ra, bà không có ý kiến nào khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ngô Trung H trình bày:

Ông là chú ruột của ông Ngô Tuấn Kh. Ngày 20/03/1997, ông có trực tiếp thương lượng, mua bán phần đất có diện tích 3.000 m2 của ông Trần Văn C và các con ông C tọa lạc tại xã Bt, huyện T.D, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là phường AP, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh) với giá 07 (bảy) lượng vàng/1.000 m2, tổng cộng là 21 (hai mươi mốt) lượng vàng. Ông đã giao đủ vàng, nhận đất và cho ông Kh toàn bộ phần diện tích đất trên. Do năm 1994, ông C, ông N, ông A và bà H đã ký giấy bán phần đất này cho bà Nguyễn Thị Thu H nhưng hai bên chưa làm xong thủ tục giấy tờ nên ông A trực tiếp dẫn ông đi gặp bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1955, trú tại: Số 26, Đường Hồ Biểu Chánh, Phường MM, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh để thương lượng. Sau đó, bà H thống nhất không tiếp tục mua phần diện tích đất của ông C, ông A, ông N, bà H mà nhường lại cho ông mua. Khi ông giao tiền, bà H đã trực tiếp có mặt tại nhà ông số 16/9C, LDC, xã An Khánh, huyện T.D, Thành phố Hồ Chí Minh để nhận lại số vàng là 10 lượng 03 chỉ, phần còn lại gia đình ông C nhận trực tiếp từ ông. Sau khi bà H nhận tiền xong và giao lại cho ông 01 bản chính của hợp đồng mua bán giữa bà H, ông C, ông A, ông N và bà H.

Tại thời điểm mua bán, chị gái ruột và anh rể ông là ông Lê Quốc S và bà Ngô Thị Liễu C đang ở nhờ nhà ông nên ông S và Bà C có biết được toàn bộ sự việc mua bán giữa các bên và đề nghị ông để lại cho ông S phần diện tích đất 1.000 m2 để ông S bán cho ông Chu Đức Th. Ông đồng ý để lại cho ông S phần đất có diện tích 1.000 m2 thuộc phần đất nói trên với giá 07 (bảy) lượng vàng và sau đó ông S bán lại cho ông Th với giá 14 (mười bốn) lượng vàng/1.000 m2, đồng thời ông S nhờ ông nói giá mua bán là 14 lượng/1.000 m2 nếu ông Th có hỏi. Sau đó, ông có thực hiện việc san lấp, xây dựng trên phần đất của ông và ông Th, mỗi nhà một căn nhà chòi, cột gỗ, mái lá với diện tích khoảng 60 -70 m2.

Do ông Ngô Tuấn Kh có hoàn cảnh khó khăn và đã phụ giúp ông trong việc kinh doanh nên ông cho ông Kh toàn bộ phần nhà đất nói trên. Ông Kh chuyển về ở và đăng ký hộ khẩu tại địa chỉ này cho đến năm 1999 thì ông đứng ra trực tiếp làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên cho ông Kh. Ông có hướng dẫn ông Th làm giấy tờ đăng ký quyền sử dụng đất. Hai bên tiến hành đồng thời các thủ tục pháp lý đối với phần đất của mỗi người. Để thuận tiện cho việc làm giấy tờ, ông Th có nhờ ông đi gặp ông N, ông A, bà H (do ông C đã chết) lập lại giấy tờ mua bán nên ông đã đi gặp ông A, bà H để lập theo hợp đồng sang nhượng đất ngày 20/3/1997, theo đó phần đất của Ngô Tuấn Kh có diện tích 2000 m2 và phần đất của bà Đinh Thị Quỳnh Ch (vợ ông Th) có diện tích 1000 m2. Khi lập lại hợp đồng mua bán, ông A có yêu cầu ông trả lại hợp đồng mua bán ban đầu nên ông đã trả và nhận lại 02 hợp đồng sang nhượng nói trên để bổ túc vào hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngày 26/10/1999, ông Kh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 với diện tích 1.743 m2 và bà Quỳnh C cũng được cấp giấy chứng nhận đối với phần đất có diện tích 940 m2 trừ ra căn nhà có diện tích 60 m2. Sở dĩ phần diện tích của ông Kh có giảm so với diện tích ban đầu vì lúc bán tính theo diện tích bờ đất sử dụng, khi tiến hành đo vẽ để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Nhà nước dựa vào cơ sở áp ranh bản đồ theo tài liệu 299 thì 01 phần đất có diện tích 192 m2 là đất sông rạch nên nhà nước không công nhận và phần đất thổ cư (căn nhà) có diện tích 65 m2.

Ông khẳng định toàn bộ phần đất có diện tích 1.743 m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân Quận H cấp ngày 26/10/1999 là do ông đứng ra thương lượng, mua bán trực tiếp và cho lại cháu Tuấn Kh, không liên quan đến Bà C, ông S.

Ông không có yêu cầu gì đối với Tuấn Kh và không có yêu cầu gì trong vụ án này. Đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - Ủy ban nhân dân Quận H có người đại diện theo ủy quyền là bà Võ Lục kim D trình bày:

Phần đất tại vị trí thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H do ông Ngô Tuấn Kh đứng tên quản lý sử dụng nằm trong phạm vi giải tỏa dự án đầu tư xây dựng đoạn tuyến kết nối Đại lộ Đông Tây với đường Cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – LT – DG theo Văn bản số 5573/UBND-ĐTMT ngày 08/11/2011 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về chấp thuận địa điểm thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng để đầu tư xây dựng đoạn tuyến kết nối Đại lộ Đông Tây với đường Cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – LT – DG.

Ngày 01/10/2012, Ủy ban nhân dân phường AP có Giấy xác nhận hồ sơ pháp lý nhà đất số 400/UBND-XN đối với thửa đất nói trên do ông Ngô Tuấn Kh đứng tên quản lý sử dụng. Ngày 22/4/2013, Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng dự án đã ký bảng chiết tính giá trị bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và tái định cư số 246/AP đối với Thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H do ông Ngô Tuấn Kh là chủ sử dụng như sau: Tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: 3.222.836.000 đồng. Về tái định cư: Không đủ điều kiện tái định cư.

Ngày 08/5/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận H ban hành Quyết định số 2761/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với ông Ngô Tuấn Kh với tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ là 3.222.836.000 đồng. Về tái định cư: Không đủ điều kiện tái định cư.

Ngày 16/6/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận H ban hành Quyết định số 2631/QĐ-UBND-TTr về giải quyết đơn khiếu nại của ông Ngô Tuấn Kh với nội dung giữ nguyên nội dung Quyết định số 2761/QĐ-UBND ngày 08/5/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận H; Bác nội dung khiếu nại của ông Ngô Tuấn Kh yêu cầu bồi thường phần đất diện tích 65m² theo đơn giá đất ở sử dụng năm 1997 và hỗ trợ san lấp đối với phần diện tích đất nông Ngh 1.743m².

Ngày 11/11/2015, Ủy ban nhân dân ban hành Quyết định số 4652/QĐ- UBND về điều chỉnh nội dung Điều 1 Quyết định số 2761/QĐ-UBND ngày 08/5/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận H với tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ là 4.308.596.000 đồng. Về tái định cư: Không đủ điều kiện tái định cư. Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ đã được Hội đồng Bồi thường dự án gửi vào Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Công thương Việt Nam, chi nhánh 7 (Phòng giao dịch LDC) theo phiếu hạch toán ngày 04/6/2013 và phiếu hạch toán ngày 06/01/2016.

Việc tranh chấp trên là giao dịch dân sự giữa các bên nên thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật dân sự, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân Quận H. Do đó, Ủy ban nhân dân Quận H vẫn giữ nguyên các quyết định bồi thường và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người làm chứng ông Chu Đức Th trình bày:

Ông và ông S có quen biết nhau. Năm 1997, vợ chồng ông có mua chung phần đất có diện tích hơn 2000 m2 tại huyện T.D (nay là phường AP, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh) với giá 16 (mười sáu) lượng vàng, trong đó phần của ông là 1.000 m2. Khi tiến hành mua bán phần đất này, vợ chồng ông không gặp chủ đất và cũng không ký tên trong hợp đồng mua bán với chủ đất, toàn bộ việc mua bán vợ chồng ông giao cho ông S, vợ ông (bà Đinh Thị Quỳnh Ch) là người thanh toán tiền với ông S nên ông không nhớ chính xác số tiền mua bán cụ thể là bao nhiêu. Khi thực hiện việc mua bán, ông để bà Quỳnh C đứng tên giấy tờ. Sau khi mua đất xong, ông có giao hết cho ông S thực hiện việc san lấp, làm nhà, làm hộ khẩu và giấy chứng nhận quyền sử dụng tại địa chỉ đất đã mua. Năm 1999, phần đất của ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, khi tiến hành làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì vợ ông có lập lại hợp đồng mua bán tách riêng phần đất của gia đình ông. Khi phần đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sổ hộ khẩu thì ông Ngô Trung H là người trực tiếp đưa cho ông. Khoảng năm 2003 hay 2004, ông, bà Quỳnh C đã ly hôn và hai bên đã thỏa thuận phân chia tài sản chung đối với giá trị đền bù của phần đất này. Ông không có yêu cầu gì trong vụ án này, tùy Tòa xét xử. Bà Ch đã định cư tại Canada từ năm 2007 đến nay.

Người làm chứng bà Đinh Thị Quỳnh Ch có đơn xin vắng mặt nhưng có lời khai gửi cho Tòa án trình bày:

Ngày 16/3/1997, bà và ông S thường trú tại: Số 21, Đường VS, phường D, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh lập Hợp đồng mua bán bằng giấy tay để cùng mua chung một mảnh đất nông Ngh diện tích 2.782 m2 thuộc thửa 396, lô 709, tờ bản đồ số 2, xã Bt, huyện T.D, Thành phố Hồ Chí Minh với 03 anh em ruột gồm ông Trần Văn A, sinh năm 1964; ông Trần Văn N, sinh năm 1967; bà Trần Ngọc H, sinh năm 1969, cùng ngụ tại địa chỉ 397, ấp AP, xã An Bình, huyện T.D, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, phần diện tích đất của bà mua là 1.000 m2, phần còn lại là của ông Lê Quốc S.

Để tiện cho việc làm thủ tục tách thửa, sang tên, ngày 20/3/1997, bà có nhờ 03 anh em trên ký giúp bà 01 hợp đồng khác với diện tích thực tế trong phần mua chung với ông S là 1000 m2, bà đã được cấp giấy cho phần đất này. Phần đất còn lại, ông S mua chung với bà thì ông S có nhờ cháu vợ ông S tên là ông NgôTuấn Kh đứng tên giùm. Sau đó, bà đi định cư ở nước ngoài. Năm 2013, bà có về nước để nhận tiền hỗ trợ, bồi thường cho phần diện tích 1.000 m2 đó. Nay bà xác nhận toàn bộ diện tích trên là bà mua chung với ông Lê Quốc S, bà đã được cấp sổ và đã nhận tiền đền bù, hỗ trợ đầy đủ theo quy định của Nhà nước.

Người làm chứng ông Trần Văn A trình bày:

Lần đầu đến xem đất gồm có ông H và 03 người không xác định rõ danh tính đi cùng. Lần thứ 2 đến xem ruộng gồm có ông H, ông S và 01 người khác không xác định được danh. Trước đó, khoảng năm 1995, gia đình ông có ký hợp đồng bằng giấy tay bán cho bà H phần đất thuộc thửa 395, tờ bản đồ số 2, xã AP, huyện T.D với diện tích 2.782 m2 với giá 5 cây vàng 9,6 tuổi/1.000 m2. Bà H đã giao cho gia đình ông khoảng 40% giá trị hợp đồng. Khoảng 3 hay 4 năm, bà H không thanh toán phần còn lại nên gia đình ông không bán cho bà H và đồng ý bán cho ông H, ông S với giá 07 cây vàng/1.000 m2. Sau khi hai bên thống nhất giá bán, các bên đến nhà ông H để lập hợp đồng mua bán và giao vàng. Tại thời điểm ký kết hợp đồng, ông không xác định ai là người đứng tên trong hợp đồng vì lúc đó ông H, Bà C là chị em trong nhà và ông chỉ nhớ Bà C là người giao vàng. Quá trình mua bán, phía Bà C có thanh toán vàng cho gia đình ông T 2 đợt. Ông không nhớ đợt 1 giao ngày nào, chỉ nhớ đợt 2 là ngày ký hợp đồng xong, Bà C giao vàng, ông lấy vàng trả cho bà H, còn dư khoảng hơn 02 (hai) cây vàng, ông cầm về lo việc gia đình. Gia đình ông chỉ mua bán phần đất của gia đình cho ông S chứ chưa bao giờ bán chung phần đất của gia đình cùng ông T, ông Ngh cho ông S. Nay tại Tòa, ông không có yêu cầu gì trong vụ án này. Ông không biết ông Nguyễn Văn D là ai và không cung cấp được địa chỉ của ông D cho Tòa. Ông không có yêu cầu gì trong vụ án này.

Người làm chứng ông Trần Văn N trình bày:

Ông không đứng ra thương lượng gì việc mua bán, chỉ đến khi ký hợp đồng mua bán, ông đến ký vào hợp đồng mua bán. Tại thời điểm mua bán có ông A, ông, ông S, Bà C, ông H cùng bà H. Ông không biết ông Nguyễn Văn D là ai và không cung cấp được địa chỉ của ông D cho Tòa. Ông không có yêu cầu gì trong vụ án này.

Người làm chứng bà Trần Ngọc H trình bày:

Do lúc mua bán, con bà bị bệnh nên bà không tham gia việc mua bán, ông A là người đứng tên ký giùm phần của bà. Bà chỉ nghe người nhà nói lại là bán cho ông S, Bà C. Bà không có yêu cầu gì trong vụ án này, tùy Tòa xét xử.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận H tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến khi xét xử, Tòa án nhân dân Quận H đã tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Do nguyên đơn ông S cho rằng có nhờ ông Kh đứng tên giùm giấy tờ nhưng không có chứng cứ chứng minh. Hợp đồng mua bán đất giữa ông A, ông N, bà H với ông S, bà Ch có sự mâu thuẫn giữa lời khai các bên nên không được công nhận. Theo lời trình bày của ông H thì ông H là người mua đất và ký hợp đồng mua bán vào ngày 20/3/1997 tại nhà ông H. Đồng thời, bà H có lời khai xác nhận ban đầu có mua phần đất diện tích 3000 m2 của gia đình ông A. Sau đó, bà H không mua nữa nên gia đình ông A đã trả lại số vàng đã đặt trước cho bà H để bán lại cho ông H. Ngày ký hợp đồng giữa ông H và ông A cũng là ngày ông A trả lại cho bà H số vàng đã nhận trước đó là 10 lượng 03 chỉ. Như vậy, căn cứ vào trình bày của bà H và chứng cứ do đương sự cung cấp thì ngày 20/3/1997 là ngày ông A, ông N, bà H ký hợp đồng mua bán đất với ông H (ông H cho Tuấn Kh đứng tên để hợp thức hóa thủ tục giấy tờ) cũng chính là ngày ông A trả lại cho bà H số tiền mua đất trước đó đã nhận là 10 lượng 03 chỉ. Từ những phân tích trên cho thấy không có chứng cứ chứng minh ông S là người mua đất, là chủ sở hữu hợp pháp của phần đất mà ông Kh đang đứng tên. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Quốc S. Theo lời trình bày của Tuấn Kh thì ông S đang giữ bản chính giấy tờ đối với phần đất đang tranh chấp do ông Kh có mượn của ông S 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng. Ông S có quyền khởi kiện đòi lại phần tiền này bằng một vụ kiện khác. Nội dung hai bên đã thống nhất được với nhau: Hai bên không thống nhất được nội dung vụ án.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 38/2019/DS-ST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định:

Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 2 Điều 229, Điều 23, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 3 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2005;

Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Quốc S về việc xác định phần đất với diện tích là 1.743 m2 thuộc thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 do Ủy ban nhân dân Quận H cấp ngày 26/10/1999 cho ông Ngô Tuấn Kh đứng tên là của ông Lê Quốc S và bà Ngô Thị Liễu C, ông S và Bà C được hưởng toàn bộ tiền đền bù, hỗ trợ thiệt hại đối với phần đất trên.

Dành cho nguyên đơn ông Lê Quốc S quyền khởi kiện đối với số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) do ông Ngô Tuấn Kh thừa nhận vay của ông S theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm là 112.308.596 đồng (một trăm mười hai triệu ba trăm lẻ tám nghìn năm trăm chín mươi sáu đồng) ông Lê Quốc S phải nộp nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông S đã nộp là 48.000.000 đồng (bốn mươi tám triệu đồng) theo biên lai thu số AE/2014/0008059 do Chi cục Thi hành án dân sự Quận H lập ngày 18/5/2017. Ông Lê Quốc S còn phải nộp thêm án phí dân sự sơ thẩm là 64.308.596 đồng (sáu mươi bốn triệu ba trăm lẻ tám nghìn năm trăm chín mươi sáu đồng). Các đương sự còn lại không phải đóng án phí dân sự.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và quyền thi hành án của các đương sự.

Ngày 26/8/2019, nguyên đơn – ông Lê Quốc S nộp đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Ngày 18/9/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày:

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐKNPT-VKS-DS ngày 18/9/2019, kháng nghị đối với bản án dân sự sơ thẩm số 38/2019/DSST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ:

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn – ông Lê Quôc Sỹ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Ngô Thị Liễu C (là vợ ông S) có yêu cầu xác định phần đất có diện tích 1.782 m2 thuộc thửa 395, Tờ bản đồ số 2 xã Bt, quận T.D, nay thuộc ấp AP, phường AP, Quận H là của vợ chồng nên vợ chồng ông bà phải nhận được tiền đền bù, đối với ông Ngô Tuấn Kh chỉ là người đứng tên giùm.

Qua lời trình bày của những người làm chứng:

- Các con của ông Trần Văn C gồm các ông bà Trần Văn A, Trần Văn N, Trần Ngọc H là người bán đất đều xác nhận phần đất có diện tích 2.782 m2 đã bán cho ông Lê Quốc S và bà Đinh Thị Quỳnh Ch vốn giá 16 lượng vàng, trong đó phần của ông S mua là 1.782 m2 , phần của bà Ch mua là 1.000 m2, vợ ông S bà Ngô Thị Liễu C là người trực tiếp giao vàng cho gia đình ông N, tổng cộng là 16 lượng vàng, gồm 2 lần giao:

+ Lần 1: 6 lượng vàng trước đây ông S đã đặt cọc để mua phần đất 8.000 m2 sau đó không thực hiện nên được chuyển qua để ông S và mua phần đất 2.782 m2.

+ Lần 2: 10 lượng vàng nhận từ bà Ngô Thị Liễu C tại nhà ông H.

- Bà Đinh Thị Quỳnh Ch cũng xác nhận mọi giao dịch và giao vàng thì bà Ch đều giao cho ông S để cùng mua chung phần đất có diện tích 2.782 m2 của 3 anh em Trần Văn A, Trần Văn N, Trần Ngọc H (trong đó ông S mua 1.782 m2 , bà Ch mua 1.000 m2). Sau này bà Ch mới nhờ anh em ông A ký lại Hợp đồng sang nhượng đất ngày 20/3/1997 với phần đất của bà Ch tách ra là 1.000 m2.

- Hiện nay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông S và Bà C cất giữ.

- Ngoài ra tại “Biên bản hòa giải ngày 26/4/2013” tại Ủy ban nhân dân phường AP, Quận H khi giải quyết về tranh chấp tiền đền bù, giữa ông S và ông Kh. Trong Biên bản có ghi nội dung phần trình bày của ông Kh “Là năm 1999 có nhận lời đứng tên giùm thửa đất 2689 tờ bản đồ số 4 của cô dượng là Lê Quốc S và Ngô Thị Liễu C …”, mặc dù kết thúc biên bản không có chữ ký của ông Kh, nhưng biên bản được lập tại ủy ban phường, có thành viên trong ban hòa giải như: Tư pháp – Hộ tịch, Chủ tịch hội LHPN, Phó CT MTTQ và phó CT phường ký tên đóng dấu, nên biên bản này xem như có giá trị về chứng cứ, vì lời khai ông Kh tại Cơ quan điều tra Công an Quận H ngày 19/6/2013 đã thừa nhận có gặp ông S tại Ban hòa giải phường AP để giải quyết tranh chấp.

t các chứng cứ trong hồ sơ và lời khai của người làm chứng đều phù hợp với lời trình bày và yêu cầu của nguyên đơn – ông Lê Quốc S và vợ là bà Ngô Thị Liễu C, nên có căn cứ để xác định ông S và Bà C là người đã mua phần đất diện tích 1.728 m2 của gia đình ông Trần Văn C.

Đối với phần trình bày của bị đơn – ông Ngô Tuấn Kh và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Ngô Trung H cho rằng: Ông H là người mua đất, là người trực tiếp giao số vàng 21 lượng cho gia đình các con ông C là không có cơ sở và cũng không được người bán đất là các con ông Trần Văn A, Trần Văn N, Trần Ngọc H thừa nhận. Đồng thời tại lời khai giữa ông H và ông Kh không thống nhất về việc mua đất 2.782 m2. Về bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay ông Lê Quốc S đang giữ, ông Kh cho rằng do cần tiền, nên đã vay ông S 30.000.000 đồng và thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tuy nhiên ông S không thừa nhận và ông Kh không xuất trình được chứng cứ chứng minh về việc vay tiền và thế chấp giấy chứng nhận.

Do vậy việc ông H cho rằng ông là người đã mua phần đất 1.782 m2 của gia đình ông Trần Văn C, sau đó cho cháu là ông Ngô Tuấn Kh là không có căn cứ.

Do đó, Tòa án nhân dân Quận H tuyên xử không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là không có căn cứ và không đúng quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, kháng nghị đối với bản án dân sự sơ thẩm số 38/DSST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm theo hướng trên.

Nguyên đơn – ông Lê Quốc S trình bày:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Vì phần đất trên là do chính ông S đứng ra mua, ông H chỉ là người dắt đi mua, ông N, ông A, bà H cũng đã xác nhận việc bán đất cho ông S tại cấp sơ thẩm và tại đơn nộp cho cấp phúc thẩm. Khi mua thì ông S mua cùng một người bạn nữa là bà Đinh Thị Quỳnh Ch tổng diện tích là 2.782 m2, mua bằng giấy tay năm 1997 của gia đình ông N, ông A, bà H (có cha là ông C). Khi mua đất chưa được cấp giấy chứng nhận. Ông S không biết bà H là ai và bà H cũng không có liên quan gì trong việc mua bán đất này.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 25/9/2019, ông Lê Quốc S trình bày: Khi mua đất ông S đã nhờ ông Ngô Tuấn Kh đứng tên giùm và không làm giấy tờ đứng tên giùm. Việc mua bán xảy ra vào năm 1997, việc tranh chấp xảy ra vào năm 1999, lúc ông Ngô Tuấn Kh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông đã liên tục tác động yêu cầu ông Ngô Tuấn Kh sang lại quyền sử dụng đất nhưng ông Kh không đồng ý.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 29/11/2019, bà Nguyễn Thanh T.R và bà Phạm Thị Thanh S là người đại diện hợp pháp của nguyên đơn – ông Lê Quốc S trình bày: Ông Lê Quốc S đã nhớ nhầm thời gian tranh chấp, việc tranh chấp xảy ra vào khoảng năm 2012 hoặc năm 2013. Ông Lê Quốc S thông nhất lời khai với bà Trúc và bà Sơn, cả 3 cùng trình bày: Vợ ông S là bà Ngô Thị Liễu C là chị gái của ông Ngô Trung H và ông Ngô Thế D, ông D là cha của ông Ngô Tuấn Kh. Do đó, vì có quan hệ ruột thịt thân thiết và do tại thời điểm làm giấy tờ đất năm 1999 ông S bận công việc không có thời gian xuống tại khu đất để tiện làm giấy tờ khi chính quyền địa phương gọi, nên có nhờ ông Kh là cháu đứng tên giùm, ông S nghĩ rằng việc đứng tên trên giấy tờ đất phải là người đủ 18 tuổi mới được đứng tên, mà thời điểm năm 1999 các con ông S đều dưới 18 tuổi, chỉ có ông Kh là cháu trên 18 tuổi. Ngay sau khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Kh giao bản chính cho ông H giữ cho tới nay. Việc ông Kh trình bày bản chính giấy chứng nhận do ông S giữ là do ông Kh có vay ông S số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) vì thua độ đá gà, sau đó không có tiền trả nên ông S giữ luôn giấy chứng nhận là không đúng sự thật. Sau nhiều lần yêu cầu ông Kh sang tên trên giấy chứng nhận trả lại quyền sử dụng đất cho ông S, để ông S hưởng tiền đền bù giải tỏa nhưng ông Kh không đồng ý. Ông S đã có đơn tố cáo gửi Cơ quan Cảnh Sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh tố ông Ngô Tuấn Kh chiếm đoạt tài sản của ông thông qua việc lợi dụng đứng tên dùm trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi chiếm đoạt tiền đền bù giải tỏa, nhưng Cơ quan cảnh sát điều tra không khởi tố vụ án hình sự vì cho rằng đây là quan hệ dân sự, không có dấu hiệu tội phạm hình sự. Sau đó qua nhiều lần hòa giải tại Ủy ban nhân dân phường không T nên ông S mới khởi kiện ra Tòa án.

Nguyên đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án, xét xử theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S về việc xác định phần đất với diện tích là 1.743 m2 thuộc thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 do Ủy ban nhân dân Quận H cấp ngày 26/10/1999 cho ông Ngô Tuấn Kh đứng tên là của ông Lê Quốc S và bà Ngô Thị Liễu C, ông S và Bà C được hưởng toàn bộ tiền đền bù, hỗ trợ thiệt hạiđối vớiphần đất trên.

Bị đơn – ông Ngô Tuấn Kh trình bày:

Về quan hệ nhân thân như ông S trình bày là đúng. Phần đất ông S tranh chấp là của ông Ngô Trung H –chú ruột của ông Kh cho ông Kh vào năm 1999, vì từ nhỏ ông Kh đã phụ giúp công việc và sống cùng ông H, hoàn cảnh cha con ông Kh lại khó khăn nên ông H cho đất để cha con ông Kh có nơi canh tác ổn định cuộc sống. Quá trình mua bán đất thế nào thì ông không rõ, ông chỉ nghe ông H nói lại rằng đất đó là mua của ông Trần Văn A, Trần Văn N, bà Trần Ngọc H, 3 người này có cha là ông Trần Văn C vì khi đó ông C bệnh nên các con đại diện đứng tên bán. Việc ông S giữ bản chính giấy chứng nhận là do vào năm 2005, ông chơi đá gà thua độ ông S nên có vay ông S số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng và thế chấp toàn bộ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên. Việc vay nợ cũng như việc thế chấp trên không làm giấy tờ vì do cả hai tin tưởng xem nhau như người trong nhà.

Ông Không kháng cáo bản án sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử y án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông S.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Ngô Trung H trình bày:

Ông Lê Quốc S trước đây là chồng bà Ngô Thị Liễu C (hiện đã ly hôn nhưng vẫn sống chung), Bà C là chị gái của ông H và ông Ngô Thế D, ông D là cha của ông Ngô Tuấn Kh, nên có mối quan hệ ruột thịt thân thích, trước đây các anh chị em chú cháu có quan hệ rất tốt. Việc ông S trình bày về quá trình mua đất và đứng dùm tên là không đúng sự thật.

Đất đó là vào năm 1997, ông H mua của ông Trần Văn C và các con ông C với giá 07 (bảy) lượng vàng/1.000 m2, tổng cộng là 21 (hai mươi mốt) lượng vàng, nhưng vì năm 1994, ông C, ông N, ông A và bà H đã ký giấy bán phần đất này cho bà Nguyễn Thị Thu H nhưng hai bên chưa làm xong thủ tục giấy tờ nên ông A trực tiếp dẫn ông đi gặp bà H để thương lượng. Sau đó, bà H thống nhất không tiếp tục mua phần diện tích đất mà nhường lại cho ông mua. Sau đó ông H và gia đình ông C hoàn tất việc mua bán.

Do ông Ngô Tuấn Kh có hoàn cảnh khó khăn và đã phụ giúp ông trong việc kinh doanh nên ông cho ông Kh toàn bộ phần nhà đất nói trên. Ông Kh chuyển về ở và đăng ký hộ khẩu tại địa chỉ này cho đến năm 1999 thì ông đứng ra trực tiếp làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên cho ông Kh. Ông không có yêu cầu gì trong vụ án này. Đề nghị Tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Ngô Thị Liễu C trình bày:

Bà là chị gái của ông H, khi đi mua đất là ông H đi mua, lúc đó có 3 hộ muốn bán tổng hơn 8.000 m2. Sau đó không biết sao 2 bên kia không bán, chỉ nhà ông C bán khoảng gần 3000 m2 đất với giá là 16 cây vàng. Lúc đầu bà giao cọc là 6 cây vàng , sau đó ký hợp đồng bà đưa thêm 10 cây, chính tay bà giao cho anh em nhà ông N. Lúc đi mua đất thì không có bà Ch vì bà Ch là bạn bè nên giao cho vợ chồng bà mua dùm sau này bà Ch mới đưa vàng lại, trên hợp đồng có ghi tên bà Ch nhưng lúc đó bà Ch không có mặt nên chưa ký tên. Vì tin tưởng em mình nên toàn bộ giấy tờ mua đất sau khi ký hợp đồng bà giao hết cho ông H. Bà không thể nhớ ký hợp đồng ngày tháng năm nào vì là giao cho ông H làm thủ tục. Khi đó bà nghĩ chồng bà là ông S ký là được, bà không có rành luật. Việc ông N, bà H xác định chỉ bán cho Bà C và ông S là do họ là người bán có đọc ký hợp đồng, nhưng chỉ cần nhận tiền, do đó ai đưa tiền thì ký, theo Bà C thì người đại diện ký khi đó là ông A chứ không phải ông N.

Khoảng năm 2012 – 2013, ông D nói là khu đất giải tỏa yêu cầu vợ chồng bà đưa giấy tờ bản chính để đi phô-tô giao cho ban đền bù. Sau khi phô - tô ông D trả lại đầy đủ giấy tờ, vợ chồng bà đợi để nhận tiền đền bù, nhưng sau đó ông H nổi lòng tham đòi chiếm đoạt toàn bộ tiền đền bù nên mới phát sinh tranh chấp. Bà thống nhất với yêu cầu của ông S, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bà Võ Lục kim D là người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ủy ban nhân dân Quận H trình bày:

Ủy ban nhân dân Quận H khẳng định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ngô Tuấn Kh là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân Quận H không có ý kiến gì trong vụ án này. Đề nghị Tòa án giải quyết đúng theo quy định của pháp luật.

Người làm chứng - bà Trần Thị Hạnh trình bày:

Bà H, ông Trần Văn A, ông Trần Văn N là con của ông Trần Văn C, 3 anh em bà có cùng ký tên trên hợp đồng bán đất cho ông Lê Quốc S và bà Ngô Thị Liễu C, trong đó ông N ký đại diện luôn cho cha là ông Trần Văn C, do ông C bị bệnh không ký được, bán với giá là 16 cây vàng đặt cọc trước 6 cây, bà không nhớ bán thửa đất nào, nhưng nhà bà chỉ có 1 miếng đất bán cho ông S và Bà C. Bà không biết việc ông H hợp thức hóa giấy tờ sang tên ông Kh, do khi đó bà có con nhỏ bị bệnh nên các anh là ông N, ông A kêu ký giấy gì bà ký giấy đó. Bà không ký với ông H bất kỳ hợp đồng nào, chỉ biết ông H, Bà C, ông S có quan hệ họ hàng thân thiết.

Người làm chứng - ông Trần Văn N trình bày:

Năm 1997, ông có cùng các anh chị em là bà H và ông A ký bán cho ông S và Bà C một miếng đất. Cả 3 anh em ký tên trên hợp đồng . Ngoài ra không ký bán cho ai khác nữa, trước đó năm 1995 gia đình ông có bán cho bà H, ông không nhớ rõ họ tên, với giá 5 cây/công đất, bán khoảng hơn 2 công đất. Không nhớ rõ giá tiền, sau đó ông C bị bệnh nên bà H yêu cầu gia đình ông bán đi được bao nhiêu trả cho bà H phần bà đã đặt cọc, còn lại để lấy tiền cho ông C chữa bệnh, bà H đưa tiền cọc bao nhiêu ông không biết do khi đó ông C lấy. Còn lại ông không nhớ rõ các chi tiết, chỉ nghe cha là ông C kể lại. Ông xác định chỉ bán cho 2 người là ông S và Bà C ngoài ra không ký bán cho ai. Sau khi bán thì đất đứng tên ai không biết. Ông biết ông H là môi giới, khi làm giấy tờ hợp thức hóa đất gặp trục trặc thì ông H yêu cầu 3 anh em ông ký giấy tờ để họ làm hợp thức hóa nhà đất, do không làm khó cho bên mua nên khi ông H đưa giấy tờ gì đó các anh em có ký. Ông không biết bà Ch là ai, cũng không ký hợp đồng mua bán với người này.

Người làm chứng - ông Trần Văn A, ông Chu Đức Th, bà Đinh Thị Quỳnh Ch, bà Nguyễn Thị Thu H: Vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày quan điểm:

Về tố tụng:

Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định pháp luật.

Về nội dung:

Giữ nguyên quyết định kháng nghị phúc thẩm số 42/QĐKNPT-VKS-DS ngày 18/9/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án dân sự sơ thẩm số 38/2019/DSST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân Quận H.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, căn cứ khoản 2 Điều 308 sửa bản án sơ thẩm, theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong hạn luật định phù hợp khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

Những người làm chứng là ông Trần Văn A, ông Chu Đức Th, bà Đinh Thị Quỳnh Ch, bà Nguyễn Thị Thu H đã có lời khai tại Tòa án cấp sơ thẩm và có đơn xin vắng mặt. Căn cứ vào Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Xét; Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Quốc S về việc xác định phần đất với diện tích là 1.743 m2 thuộc thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 do Ủy ban nhân dân Quận H cấp ngày 26/10/1999 cho ông Ngô Tuấn Kh đứng tên là của ông Lê Quốc S và bà Ngô Thị Liễu C, ông S và Bà C được hưởng toàn bộ tiền đền bù, hỗ trợ thiệt hạiđối với phần đất trên.

Trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm phía nguyên đơn ông S xác nhận các bên thống nhất hủy hợp đồng sang nhượng đất lập ngày 04/02/1997, toàn bộ số tiền đã đặt cọc được chuyển sang hợp đồng ngày 16/03/1997, các bên không tranh chấp. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Phan Văn T, bà Trương Thị Năm, ông Võ Văn Ng vào tham gia tố tụng trong vụ án này với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là đúng.

t thấy, bà Đinh Thị Quỳnh Ch và ông Chu Đức Th đều có lời khai xác định phần diện tích đất 1.000m2 trong tổng số diện tích 2.782 m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, phía ông Th và bà Ch cũng đã nhận toàn bộtiền đền bù, hỗ trợ thiệt hại và cũng không có tranh chấp đối với phần đất mua chung. Phía ông Trần Văn A, ông Trần Văn N, bà Trần Ngọc H cũng xác nhận đã bán toàn bộ phần đất mà các bên đang tranh chấp và không có yêu cầu gì nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông Trần Văn A, ông Trần Văn N, bà Trần Ngọc H, bà Đinh Thị Quỳnh Ch, ông Chu Đức Th là người làm chứng trong vụ án này là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại bản khai ngày 20/7/2017 của bà Thái Mỹ C, ngày 06/6/2019 của bà Lê Thị Tuyết có lời khai xác nhận phần đất có diện tích 1.743 m2 thuc thửa 2689 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 ngày 26/10/1999 do Ủy ban nhân dân Quận H,Thành phố Hồ Chí Minh cấp là tài sản riêng của ông Ngô Tuấn Kh, không liên quan gì đến họ, toàn bộ số tiền ông H bỏ ra mua cho ông Kh là tài sản riêng của ông H. Ngày 24/6/2019, ông Ngô Thế D đã có lời khai trình bày ông là cha ruột của Ngô Tuấn Kh, toàn bộ số tiền bỏ ra mua phần đất đang tranh chấp là của ông Ngô Trung H (em ruột ông D), ông không đóng góp gì. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà Thái Mỹ C, bà Lê Thị Tuyết, ông Ngô Thế D vào tham gia tố tụng trong vụ án này với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là đúng theo quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với số thửa đất, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào lời khai của các đương sự, tài liệu, chứng cứ thu thập tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Quận H cung cấp để xác định phần diện tích đất các bên tranh chấp trong vụ án này thuộc thửa 2689 và một phần thửa số 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg tại phường AP, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh nay thuộc 01 phần thửa 22, rạch, tờ bản đồ 59 (theo tài liệu năm 2003), phường AP, Quận H là có cơ sở.

- Đối với biên bản hòa giải ngày 26/4/2013 của Ủy ban nhân dân phường AP: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, ông S và Bà C xác nhận vào năm 2012 khi biết phần đất đang tranh chấp bị giải tỏa và được hỗ trợ, bồi thường, ông D là cha của Tuấn Kh có cho biết phía ông H có đề nghị ông S đưa cho ông H số tiền 800.000.000(tám trăm triệu) đồng, còn phần của ông Kh cho bao nhiêu thì cho. Ông S, Bà C đồng ý với yêu cầu này nhưng khoảng 02 hay 03 ngày sau, ông H và ông Kh tuyên bố sẽ lấy hết toàn bộ số tiền đền bù đối với phần đất trên. Tại phiên tòa phúc thẩm ông S cũng thừa nhận có sự việc nêu trên.

Như vậy, ngay từ thời điểm từ năm 2012, phía ông Kh đã xác định toàn bộ số tiền đền bù của phần đất tranh chấp là của ông Kh. Do đó, biên bản hòa giải lập ngày 26/4/2013 của Ủy ban nhân dân phường AP Quận H lập có nội dung ông Kh thừa nhận đứng tên giùm ông S, Bà C phần đất này và phía ông S, Bà C sẽ cho ông Kh số tiền 800.000.000 đồng (tám trăm triệu đồng) nhưng xin thời hạn 01 tuần để về bàn bạc với gia đình, biên bản không có chữ ký của ông Kh và cũng không có người làm chứng xác nhận nhưng lại đóng dấu của Ủy ban nhân dân phường AP là chưa có cơ sở để xác định nội dung trong biên bản hòa giải ngày 26/4/2013 là ý chí của ông Kh.

Tại biên bản hòa giải lần 2, ông Ngô Tuấn Kh có ký nhưng xác định ông không đồng ý với nội dung biên bản.

Tại Cơ quan Cảnh Sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ông Kh xác nhận toàn bộ thửa đất là do chú – ông Ngô Trung H mua cho.

- Đối với hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/03/1997:

Tại buổi đối chất ngày 18/7/2019, hòa giải ngày 30/7/2019 của Tòa án câp sơ thẩm, phía ông S, Bà C cũng như người làm chứng ông A, ông N, bà H đều xác nhận ngày giao nhận vàng và ngày các bên ký hợp đồng mua bán đối với phần đất đang tranh chấp là cùng 01 thời điểm và được thực hiện tại nhà ông Ngô Trung H. Tại thời điểm ký hợp đồng và giao nhận vàng, có mặt Bà C, ông S, ông H, ông N, ông A, bà H, không có mặt bà Ch, ông Th. Việc giao vàng được thực hiện là 02 lần: Lần 1 là 06 cây vàng và lần 2 là ngày ký hợp đồng giao hết số vàng còn lại 10 cây vàng.

Tại hợp đồng chuyển nhượng ngày 18/4/1994, có thể hiện gia đình ông A nhận của bà H tổng cộng là 10 cây 03 chỉ. Ông A cho rằng ngay khi nhận vàng của Bà C, ông đã trả cho bà H số vàng đã nhận, số vàng còn dư khoảng 02 cây, ông cầm về lo cho gia đình là chưa phù hợp bởi lẽ ngày 16/3/1997, ông A chỉ nhận của Bà C 10 (mười lượng) vàng nhưng lại trả cho bà H 10 lượng 03 chỉ mà còn dư khoảng 02 cây. Đồng thời, các bên thỏa thuận mua bán 7 lượng/1000 m2, tổng diện tích mua bán là 2.782 m2 nhưng giá trị của hợp đồng mua bán 16 (mười sáu) lượng vàng là không phù hợp với thực tế, giá trị mua bán đúng phải là hơn 18 (mười tám) lượng vàng.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 29/11/2019, ông N, bà H xác nhận chỉ ký duy nhất một hợp đồng mua bán với ông S và Bà C. Không biết bà Ch là ai. Sau đó, ông N và bà H thay đổi lời khai cho rằng ông Ngô Trung H là người môi giới làm giấy tờ nhà đất nên cũng đã ký tên một số giấy tờ. Điều này không xác định được tính chính xác của lời khai nhân chứng.

Như vậy, lời khai của người làm chứng ông A, ông N, bà H mặc dù đã có sự thống nhất với nhau nhưng đều không đúng với thực tiễn sự việc. Mặt khác, tại cấp sơ thẩm phía người làm chứng ông Chu Đức Th khẳng định gia đình ông không đi gặp, thương lượng, không ký hợp đồng mua bán với chủ đất, tất cả các giao dịch mua bán đều do ông S thực hiện, chỉ đến khi làm giấy tờ thì gia đình ông mới nhờ chủ đất ký lại hợp đồng tách riêng phần diện tích đất của gia đình là 1000 m2. Nhưng trong hợp đồng mua bán lại thể hiện người mua là bà Quỳnh C.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông N và bà H khẳng định không hề biết bà Đinh Thị Quỳnh Ch là ai. Điều này khẳng định: Bà Ch không hề có mặt tại buổi chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên không có cơ sở để xác định lời khai nhân chứng bà Đinh Thị Quỳnh Ch cho rằng ông Lê Quốc S đã mua đất và để ông Ngô Tuấn Kh đứng tên.

Do đó, hợp đồng sang nhượng đất lập bằng giấy tay ngày 16/03/1997 có ghi bên mua là ông Lê Quốc S và bà Đinh Thị Quỳnh Ch là không có thật. Biên lai nộp thuế ngày 30/12/2012 do Bà C xuất trình với nội dung thu thuế nợ đọng năm 2011 trở về trước được thực hiện sau khi có thông báo thu hồi đất của Ủy ban nhân dân Quận H (ngày 17/11/2011)và phương án bồi thường ngày 04/4/2012 nên không là căn cứ để xác định Bà C, ông S là chủ sử dụng phần đất tranh chấp.

- Đối với Hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/8/1994:

Xác lập giữa ông Trần Văn C, bà Nguyễn Thị Thu H có thể hiện nội dung ông C, ông A, ông N, bà H có bán cho bà H phần đất tại khu vực tập đoàn 10 (cũ) thuộc ấp Mỹ Hòa, xã Bt, huyện T.D với diện tích 3.000 m2, giá 05 (năm) lượng vàng 24K/1.000 m2, tổng cộng bà H đã giao cho ông C và các con là 10 lượng 03 chỉ. Phần cuối của hợp đồng có ghi:“ Tôi tên Nguyễn Thị Thu H, xác nhận đã nhận lại của anh Trần Văn A số vàng là 10 lượng 03 chỉ, trả lại thửa đất đã thỏa thuận mua bán trước đây để anh A bán lại cho ông Ngô Trung H, thường trú tại 16/9C, LDC, xã An Khánh, T.D 20/3/97 đã nhận đủ tiền”.

Ngày 09/7/2019, bà H có lời khai xác nhận chữ kỹ, chữ viết trong hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất ngày 14/8/1994 được viết tay là của bà và sự việc ghi trong hợp đồng là hoàn toàn đúng.

Phía người làm chứng ông A, ông N, Hạnh đều xác nhận có bán cho bà H phần đất này với giá 05 lượng vàng/1.000 m2 và tại nhà ông H, ngay khi nhận vàng, ông A đã trả luôn cho bà H số vàng đã nhận.Ông A cũng xác nhận chữ ký trong hợp đồng mua bán với bà H là của ông.

Mặt khác, căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng đất làm cơ sở xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 do Ủy ban nhân dân Quận H cấp ngày 26/10/1999 thể hiện nội dung: Ngày 20/3/1997, ông A, ông N, bà H có bán cho ông Kh phần đất có diện tích 2.000 m2 và bán cho bà Ch phần đất có diện tích 1.000 m2.

Như vậy,lời khai của ông Ngô Trung H lý giải về phần diện tích mua bán có sự thay đổi là có cơ sở, thể hiện tại bản đồ hiện trạng vị trí phục vụ cho việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất mua bán của ông Kh có phần diện tích 192 m2 thuộc rạch và 65 m2 là diện tích xây dựng của căn nhà nên diện tích trong giấy chứng nhận cấp cho ông Kh còn lại là 1.743 m2..

Mặt khác, ông S, Bà C xác nhận: Không có văn bản nào để ông Ngô Tuấn Kh đứng tên giùm.

Do đó, có đầy đủ cơ sở để xác định:Vào ngày 20/3/1997, ông Trần Văn A, Trần Văn N, bà Trần Ngọc H có ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Ngô Trung H phần đất có diện tích 3.000 m2 thuc thửa 395, tờ bản đồ số 2, xã AP, huyện T.D (nay là thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 7 (bảy) lượng vàng/1.000 m2. Sau đó, ông H để lại cho ông S 1000 m2 và ông S chuyển nhượng lại cho ông Th, bà Ch. Năm 1999, ông H nhờ ông A, ông N, bà H lập lại thành 02 hợp đồng mua bán với nội dung vào ngày 20/3/1997, bán cho ông Kh phần đất có diện tích 2.000 m2 và bán cho bà Quỳnh C (vợ ông Th) phần đất có diện tích 1.000 m2 để làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Nay ông H xác nhận đã cho ông Kh toàn bộ phần đất này là có cơ sở.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm phía ông S không có tài liệu, chứng cứ chứng minh có nhờ ông Ngô Tuấn Kh đứng tên giùm đối với phần đất này.

Do đó, việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu xác định phần đất với diện tích là 1.743 m2 thuc thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 do Ủy ban nhân dân Quận H cấp ngày 26/10/1999 cho ông Ngô Tuấn Kh đứng tên là của ông Lê Quốc S và bà Ngô Thị Liễu C, ông S và Bà C được hưởng toàn bộ tiền đền bù, hỗ trợ thiệt hại đối với phần đất trên là không có cơ sở, cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ.

Xét Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là không có cơ sở đế chấp nhận.

Đối với ý kiến của ông Kh cho rằng đã cầm cố giấy chứng nhận nói trên cho ông S để vay số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) nhưng không có giấy tờ, phía ông S không có yêu cầu trong vụ án này. Tòa án câp sơ thẩm dành cho ông S quyền khởi kiện đối với phần này theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu là có căn cứ.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí dân sự:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Phần diện tích đất tranh chấp có tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ là 4.308.596.000 đồng (bốn tỷ ba trăm lẻ tám triệu năm trăm chín mươi sáu nghìn đồng) nên án phí dân sự sơ thẩm ông Lê Quốc S phải chịu là 112.308.596 đồng (một trăm mười hai triệu ba trăm lẻ tám nghìn năm trăm chín mươi sáu đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông S đã nộp là 48.000.000 đồng (bốn mươi tám triệu đồng) theo Biên lai thu số AE/2014/0008059 do Chi cục Thi hành án dân sự Quận H lập ngày 18/5/2017. Ông Lê Quốc S còn phải nộp thêm án phí dân sự sơ thẩm là 64.308.596 đồng (sáu mươi bốn triệu ba trăm lẻ tám nghìn năm trăm chín mươi sáu đồng).Các đương sự còn lại không phải đóng án phí dân sự.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn – ông Lê Quốc S phải chịu là 300.000 đồng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0016745 ngày 29/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận H.

Ông Lê Quốc S đã nộp xong án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 3 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2005; Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn – ông Lê Quốc S.

2. Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 38/2019/DS-ST ngày 20/8/2019 của Tòa án nhân dân Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Quốc S về việc xác định phần đất với diện tích là 1.743 m2 thuộc thửa 2689, một phần thửa 707, rạch, tờ bản đồ số 4 (tài liệu 299/TTg); nay thuộc một phần thửa 22, rạch tờ bản đồ số 59 (theo tài liệu đo năm 2003), phường AP, Quận H theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 428003 do Ủy ban nhân dân Quận H cấp ngày 26/10/1999cho ông Ngô Tuấn Kh đứng tên là của ông Lê Quốc S và bà Ngô Thị Liễu C, ông S và Bà C được hưởng toàn bộ tiền đền bù, hỗ trợ thiệt hạiđối vớiphần đất trên.

Dành cho nguyên đơn ông Lê Quốc S quyền khởi kiện đối với số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) do ông Ngô Tuấn Kh thừa nhận vay của ông S theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu.

5.Về án phí dân sự:

5.1. Án phí dân sự sơ thẩm là 112.308.596 đồng (một trăm mười hai triệu ba trăm lẻ tám nghìn năm trăm chín mươi sáu đồng) ông Lê Quốc S phải nộp nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông S đã nộp là 48.000.000 đồng (bốn mươi tám triệu đồng) theo biên lai thu số AE/2014/0008059 do Chi cục Thi hành án dân sự Quận H lập ngày 18/5/2017. Ông Lê Quốc S còn phải nộp thêm án phí dân sự sơ thẩm là 64.308.596 đồng (sáu mươi bốn triệu ba trăm lẻ tám nghìn năm trăm chín mươi sáu đồng). Các đương sự còn lại không phải đóng án phí dân sự.

5.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Nguyên đơn – ông Lê Quốc S phải chịu là 300.000 đồng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0016745 ngày 29/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận H.

Ông Lê Quốc S đã nộp xong án phí dân sự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1162/2019/DS-PT ngày 29/11/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:1162/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về