Bản án 116/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 116/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 101/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1989 tại tỉnh Phú Thọ; thường trú: Khu phố Tr Ch, xã Ph N, huyện L Th, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1965; bị cáo có 01 anh ruột, sinh năm 1986; tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 20/9/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã T U, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 122/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/6/2019, đóng án phí ngày 13/11/2017; Nhân thân: Ngày 07/9/2010, bị Tòa án nhân dân huyện D A (nay là thành phố D A), tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 205/2010/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/8/2011, đóng án phí ngày 26/01/2011; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 28/01/2021 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Trịnh Xuân M, sinh năm 1977; thường trú: Ấp R B, xã A T, thị xã B C, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Tổ BM, khu phố Ch L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

*Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Anh Trương Văn L; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 27/01/2021, Nguyễn Mạnh H đi bộ đến tiệm tạp hóa của anh Trịnh Xuân M thuộc khu phố Ch L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương để mua thau nhựa. Trong lúc mua đồ, H nhìn thấy chìa khóa xe để trên ghế và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 76F1-055.76 đang dựng trước cửa. Lúc này, H lấy chìa khóa đi ra ngoài, rồi ngồi lên xe mô tô biển số 76F1-055.76 cắm chìa khóa vào xe, nổ máy chạy thẳng về nhà nghỉ “GICB” tại địa chỉ phường L Th, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương. Tại đây, Hảo thuê phòng 307 để nghỉ, đến 23 giờ 30 phút cùng ngày Công an phường L Th, thành phố Th A, tỉnh Bình Dương kiểm tra phát hiện bắt khẩn cấp H cùng tang vật, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ cùng tang vật cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương xử lý theo thảm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 76F1-055.76 và 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen, phía trước có chữ Louis Vuitton mà Nguyễn Mạnh H mặc khi thực hiện hành vi trộm xe.

Theo Kết luận định giá tài sản số: 17/BB.ĐG ngày 01/12/2021 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận như sau: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 76F1-055.76 màu vàng, bạc, số máy 1510461, số khung 710405 có trị giá 10.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số: 17/BB.ĐG ngày 01/12/2021 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Tại cáo trạng số: 124/CT – VKS - DA ngày 05 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

* Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 76F1-055.76, hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại Trịnh Xuân M nên không đặt ra xem xét và 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen, phía trước có chữ Louis Vuitton mà Nguyễn Mạnh H mặc khi thực hiện hành vi trộm xe, không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

* Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 76F1-055.76, đã thu hồi trả lại cho bị hại Trịnh Xuân Mạnh, bị hại Mạnh không yêu cầu gì khác nên không đặt ra xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận, đối đáp gì với đại diện Viện kiểm sát, đồng thời trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại, người làm chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 20 giờ ngày 27/01/2021, tại tiệm tạp hóa của anh Trịnh Xuân M thuộc khu phố Ch L, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Mạnh H lén lút chiếm đoạt 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 76F1-055.76 có trị giá 10.000.000 đồng của anh M. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số: 124/CT – VKS - DA ngày 05 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tiền án về tội Cướp giật tài sản, chưa được xóa án tích, nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, thể hiện bị cáo từng bị xét xử về tội Cướp tài sản, đã được xóa; có tiền án về tội Cướp giật tài sản chưa được xóa nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo có tiền án chưa được xóa, hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 76F1-055.76, hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại Trịnh Xuân M nên không đặt ra xem xét và 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen, phía trước có chữ Louis Vuitton mà Nguyễn Mạnh H mặc khi thực hiện hành vi trộm xe, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade biển số 76F1-055.76, đã thu hồi trả lại cho bị hại Trịnh Xuân M, bị hại M không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về tội danh, mức hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 01 (một) năm 06 (sáu) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/01/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen, phía trước có chữ Louis Vuitton.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 28/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm akhoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Mạnh H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:116/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về