Bản án 116/2021/HS-ST ngày 22/09/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TH, TỈNH L

BẢN ÁN 116/2021/HS-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 22 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Th, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 118/2021/TLST- HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2021/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cầm Quốc K; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 02/9/1999 tại huyện Th, tỉnh L;

Nơi cư trú: Bản L G, xã M, huyện Th, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Cầm Văn Đ, sinh năm 1978 và bà: Cầm Thị B, sinh năm 1979; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, Tiền sự: Không.

Ngày 31/5/2021, Bị cáo Cầm Quốc K bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã M, huyện Th, tinh L. (Có mặt).

- Bị hại: Ông Lò Xuân H, sinh năm 1962.

Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh L. (Đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Bà Lò Thị V, sinh năm 1964. Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh L.

2. Anh Lò Xuân G, sinh năm 1984; Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh L.

3. Anh Lò Xuân Th, sinh năm 1994; Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh L.

4. Anh Lò Xuân T, sinh năm 1994; Địa chỉ: Tổ dân phố 26, thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh L.

5. Chị Lò Thị H, sinh năm 1988; Địa chỉ: Số 095 đường Trần Phú, phường Tân Phong, thành phố L, tỉnh L.

(Những đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có ủy quyền tham gia tố tụng theo Giấy ủy quyền ngày 19/3/2021).

- Người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp cho bị hại: Anh Lò Xuân G, sinh năm: 1984. Địa chỉ: Khu 6, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh L. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Chảo Văn D, sinh năm 2000; Địa chỉ: Bản LH, xã P, huyện T, tỉnh L. (Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Cầm Quốc K đã có giấy phép lái xe mô tô. Ngày 16/01/2021, K mượn xe mô tô, biển kiểm soát 25U1 – 006.11 của anh Chảo Văn D, sinh năm 2000, địa chỉ: Bản LH, xã P, huyện T, tỉnh L để đi xuống bản M, xã Mường C, huyện Th dự đám ăn hỏi. Sau khi ăn cơm, uống rượu xong, khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, K điều khiển xe mô tô mục đích đi đến Khu 9 thị trấn Th, huyện Th, đến địa phận đường nội đồng thuộc Khu 8, thị trấn Th, huyện Th, Cầm Quốc K nhìn thấy phía trước cách vị trí của K khoảng 10 đến 15 m có 01 xe mô tô điều khiển theo hướng ngược lại (xác định là xe mô tô, biển kiểm soát 25T1 – 110.10 do ông Lò Xuân H, sinh năm 1962, trú tại Khu 6, thị trấn Th, huyện Th điều khiển). Theo Cầm Quốc K khai nhận: Chiếc xe mô tô do ông Lò Xuân H điều khiển có biểu hiện đi sang phần đường bên phải theo chiều di chuyển của K (hướng từ Quốc lộ 32 đi khu 9, thị trấn Th) nên K đã điều khiển xe lấn sang phần đường bên trái. Do khoảng cách quá gần và trong tình trạng sử dụng rượu, bia Cầm Quốc K không kịp xử lý nên xe mô tô của K đã đâm trực diện vào xe mô tô của ông Lò Xuân H làm cả hai xe đổ ra đường. Bị cáo Cầm Quốc K và ông Lò Xuân H đều bất tỉnh và được người dân đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện Th, tỉnh L. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày ông Lò Xuân H tử vong.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định như sau: Địa điểm xảy ra tai nạn giao thông là đường nội đồng thuộc địa phận Khu 8, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh L. Đây là đoạn đường thẳng, mặt đường bê tông xi măng bằng phẳng, rộng 4,08m, tầm nhìn không bị che khuất, hai bên đường là lề đất cỏ mọc rộng 1,10 m và 1,0 m, tiếp đó là rãnh nước hai bên đường rộng 0,60m. Đường bên phải và bên trái được xác định theo chiều đi của Cầm Quốc K theo hướng đi từ Quốc lộ 32 đi Khu 9, thị trấn Th. Tại hiện trường để lại 06 vết cà, vết trượt của phương tiện giao thông xuống mặt đường đều nằm trên phần đường bên trái theo chiều đi của Cầm Quốc K. Hiện trường không phát hiện có dấu vết phanh của phương tiện giao thông. Hai chiếc xe mô tô đổ, điểm trung tâm của các mảnh nhựa của hai xe mô tô bị vỡ, bắn ra đều nằm trên phần đường bên trái theo chiều đi của Cầm Quốc K. Điểm đâm va đầu tiên có kích thước 0,25 m X 0,24m, đầu vết cách mép đường bên phải theo chiều đi của Cầm Quốc K là 2,27m, cuối vết cách mép đường bên phải theo chiều đi của Cầm Quốc K là 2,77m. Kết thúc khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra đã thu giữ 02 xe mô tô do Cầm Quốc K và ông Lò Xuân H điều khiển.

Ngay sau khi xảy ra va chạm giao thông, Công an huyện Th đã tiến hành đo nồng độ cồn có trong hơi thở của Cầm Quốc K xác định là 0,628 miligam/01 lít khí thở.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 08/BKL - TTPY ngày 16/02/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh L kết luận: Nguyên nhân chết của ông Lò Xuân H do: Chấn thương sọ não kín.

Tại bản kết luận số 04/HĐ – ĐGTS ngày 05/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Th kết luận: Một số bộ phận hư hỏng xe mô tô biển kiểm soát 25T1 – 110.10 của ông Lò Xuân H có giá trị là 1.336.500 đồng.

Qua công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện giao thông, khám nghiệm tử thi cùng với lời khai của bị cáo Cầm Quốc K xác định: Cầm Quốc K điều khiển xe mô tô trong tình trạng có sử dụng rượu, hơi thở có nồng độ cồn 0,628 miligam/1 lít khí thở và va chạm với xe mô tô đi ngược chiều do ông Lò Xuân H điều khiển. Điểm va chạm giữa xe mô tô do Cầm Quốc K điều khiển tại đầu vết 01 (hiện trường) là vết cà đầu tiên của phương tiện giao thông xuống mặt đường. Điểm đâm va này cách mép đường cách mép đường bên phải theo chiều đi của Cầm Quốc K là 2,79m. Như vậy, Cầm Quốc K đã điều khiển xe mô tô chạy lấn sang phần đường dành cho xe đi ngược chiều 0,75 m, đâm vào xe mô tô đang đi ngược chiều do ông Lò Xuân H điều khiển khiến cho ông Lò Xuân H tử vong. Hành vi của Cầm Quốc K đã vi phạm khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ năm 2008: “Trên đường không phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, hai xe đi ngược chiều tránh nhau, người điều khiển xe phải giảm tốc độ và cho xe đi về bên phải theo chiều xe chạy của mình” và khoản 8, Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008 “Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thởNgày 31/5/2021, Bị cáo Cầm Quốc K bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th khởi tố về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Vật chứng của vụ án: Ngày 28/7/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 25U1 – 006.111 cùng giấy tờ xe cho anh Chảo Văn D là chủ sở hữu hợp pháp; trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 25T1 – 110.10 cùng giấy tờ xe của ông Lò Xuân H cho anh Lò Xuân G là đại diện theo ủy quyền của gia đình bị hại Lò Xuân H; trả lại cho bị cáo Cầm Quốc K 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Cầm Quốc K.

Vật chứng còn lại của vụ án: Không.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Cầm Quốc K và người đại diện hợp pháp của bị hại Lò Xuân H đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm là 200.000.000 đồng, bị cáo đã thực hiện xong trách nhiệm bồi thường, người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Chảo Văn D đã nhận được chiếc xe mô tô và tự nguyện thỏa thuận với bị cáo Cầm Quốc K về bồi thường thiệt hại đối với những bộ phận hư hỏng của chiếc xe mô tô bị cáo K mượn của anh D. Anh D không đề nghị giải quyết về trách nhiệm dân sự.

Bản cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 30/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th tỉnh L truy tố bị cáo Cầm Quốc K về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Th, tỉnh L giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Cầm Quốc K 03 năm tù. Áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo. Không áp dụng các hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Các vật chứng của vụ án được xử lý trong giai đoạn điều tra theo Quyết định xử lý vật chứng số 45/XLVC ngày 28/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th là đúng quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Không phải giải quyết do đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Cầm Quốc K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Cầm Quốc K khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Th, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Cầm Quốc K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Kết luận điều tra, bản Cáo trạng đã truy tố và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, như vậy có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 16/01/2021, tại đường nội đồng thuộc địa phận khu 8, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh L, bị cáo Cầm Quốc K điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 25U1 – 006.11 trong hơi thở có nồng độ cồn 0,628 miligam/1 lít khí thở (vuợt quá mức quy định). Do không làm chủ được phương tiện giao thông, xe mô tô do Cầm Quốc K điều khiển đã chạy lấn sang phần đường dành cho xe đi ngược chiều 0,75 mét đâm vào xe mô tô đi ngược chiều biển kiểm soát 25T1 – 110.10 do ông Lò Xuân H (sinh năm1962, trú tại Khu 6, thị trấn Th, huyện Th, tỉnh L) điều khiển. Hậu quả: Ông Lò Xuân H tử vong do chấn thương sọ não kín. Ngày 31/5/2021, Bị cáo Cầm Quốc K bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th khởi tố về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Bị cáo Cầm Quốc K là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 17 và khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008 gây hậu quả làm chết một người nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 17 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “Trên đường không phân chia thành hai chiều xe chạy riêng biệt, hai xe đi ngược chiều tránh nhau, người điều khiển xe phải giảm tốc độ và cho xe đi về bên phải theo chiều xe chạy của mình”.

Khoản 8, Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định về các hành vi nghiêm cấm: “Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở”.

Điều 260. Tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “1. Người nào tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) Làm chết người.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm” b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định...” Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Th truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản áp dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Bị cáo Cầm Quốc K đã có giấy phép lái xe theo quy định nên thức rõ về nguyên tắc tham gia giao thông và các hành vi bị nghiêm cấm khi tham gia giao thông đường bộ, mặc dù đã sử dụng chất có cồn nhưng bị cáo vẫn điều khiển phương tiện tham gia giao thông dẫn đến không làm chủ được phương tiện gây ra tai nạn. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ do đó cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Cầm Quốc K sinh ra tại huyện Th, tỉnh L, được bố mẹ nuôi ăn học hết lớp 12/12. Năm 2019 đến tháng 5/2021, bị cáo thực hiện nghĩa vụ Công an nhân dân tại Công an huyện Tân Uyên, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Cầm Quốc K đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo và gia đình bị hại đã tự nguyện thỏa thuận về bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm và bị cáo đã thực hiện xong trách nhiệm bồi thường; Gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo Cầm Quốc K được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, chịu thời gian thử thách, giao bị cáo về chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ để răn đe, cải tạo cho bị cáo và thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có chức vụ. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng các hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do bị cáo và những người đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận thực hiện xong về bồi thường thiệt hại, đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Chảo Văn D đã nhận lại chiếc xe mô tô do bị cáo Cầm Quốc K mượn và gây ra tai nạn giao thông. Giữa bị cáo và anh Chảo Văn D đã tự nguyện thỏa thuận và thực hiện xong về bồi thường thiệt hại những bộ phận hư, hỏng của chiếc xe mô tô, anh D không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Các vật chứng của vụ án được xử lý trong giai đoạn điều tra theo Quyết định xử lý vật chứng số 45/XLVC ngày 28/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Th là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.

[8] Như vậy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Th về tội danh, mức hình phạt, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng đối với bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về biện pháp ngăn chặn: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú” của Tòa án nhân dân huyện Th theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 94/2021/ HSST- LCĐKNCT ngày 01/9/2021 đối với bị cáo Cầm Quốc K.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Cầm Quốc K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Cầm Quốc K phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Xử phạt bị cáo Cầm Quốc K 03 (Ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (Năm) năm kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Cầm Quốc K cho Uỷ ban nhân dân xã M, huyện Th, tỉnh L để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quyết định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Cầm Quốc K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[3] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo, những người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân cấp trên. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2021/HS-ST ngày 22/09/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:116/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về