Bản án 116/2021/HS-ST ngày 19/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 116/2021/HS-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 05 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:93/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 05 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 173/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 05 năm 2021 đối với bị cáo:

Đối với: Tống Trang S - Năm sinh: 1990 HKTT và nơi ở: tổ dân phố Thượng Tổ, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

Quốc tịch : Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Nghề nghiệp : Không Văn hoá: 12/12 Họ và tên bố: Tống Công K – SN: 1961 Họ và tên mẹ:Trần Thị Mai C – SN: 1966 Gia đình có 2 anh em, bị can là con đầu.

Họ và tên vợ: Phạm Thị V – SN: 1990 Có 02 con, con lớn 6 tuổi, con nhỏ 3 tuổi.

Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 24/01/2021, tạm giữ từ ngày 25/01/2021 đến ngày 31/01/2021, tạm giam từ ngày 31/01/2021 đến ngày 08/02/2021.

Ngày 08/02/2021,Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình ra Quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam số 04; Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ba Đình ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 18 và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh số 18; Bị cáo có mặt phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 15 phút ngày 24/01/2021, tại trước số 19 Phan Đình Phùng, phường Quán Thánh, Ba Đình, Hà Nội, tổ công tác Công an phường Quán Thánh phát hiện Tống Trang S có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra.Qua kiểm tra, thu giữ tại túi trong bên trái áo khoác của S 01 túi nilon màu trắng, kích thước (4x4) cm bên trong chứa 08 viên nén hình vuông màu nâu và 01 túi nilon màu trắng kích thước (3x3) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. S khai nhận đây là số ma túy tổng hợp S mua mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã đưa S cùng vật chứng về trụ sở công an phường Quán Thánh để làm rõ.

Ngoài thu giữ số ma túy trên, cơ quan Công an thu giữ của S: 01 Điện thoại di động Nokia 5.3 màu đen có số IMEI 1: 355792104441145, IMEI 2:

355792164446847, bên trong có sim số 0989440998 và 0961323344; Tiền Việt Nam: 220.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số: 1161/KLGĐ-PC09 ngày 31/01/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- 08 viên nén hình vuông màu nâu đều là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng:

3,561 gam - Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Ketamine, khối lượng 0,855 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Tống Trang S khai nhận: S là bộ đội mới xuất ngũ ngày 20/01/2021, trước đây công tác tại Đội xe 1, đoàn xe Cục Hậu cần, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng, cấp bậc Trung úy. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 24/01/2021, S đi xe taxi đến khu vực Nhà máy pin Văn Điển,Thanh Trì,Hà Nội Đến nơi, S dặn taxi đứng đợi, rồi đi bộ khoảng 400 m vào gần đình làng. Tại đây, S hỏi mua được của 01 nam thanh niên không quen biết 08 viên thuốc lắc và một gói ma túy Ketamine với giá 3.900.000 đồng. S cất ma túy vào túi trong bên trái áo khoác rồi quay lại lên xe taxi đi đến phố Phan Đình Phùng thì xuống xe, đang trên đường đi tìm nơi sử dụng thì bị bắt giữ.

Đối với nam thanh niên bán ma tuý cho S, do S khai không biết tên tuổi địa chỉ, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được nên không có căn cứ để xử lý.

Bản cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 28/4/2021của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Tống Trang S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 30 - 40 (Ba mươi đến bốn mươi) tháng tù, trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam.

Về vật chứng: đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1,điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của bị cáo còn lại sau giám định. Trả lại cho bị cáo số tiền 220.000 đồng và 01 Điện thoại di động Nokia 5.3 màu đen ;miễn hình phạt bổ xung bằng tiền đối với bị cáo.

Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo khai, khoảng 21 giờ 30 phút ngày 24/01/2021, bị cáo đi xe taxi đến khu vực Nhà máy pin Văn Điển,Thanh Trì,Hà Nội. Đến nơi bị cáo dặn taxi đứng đợi, rồi đi bộ khoảng 400 m vào gần đình làng.Tại đây bị cáo hỏi mua được của 01 nam thanh niên không quen biết hai gói ma túy với giá 3.900.000 đồng. Bị cáo cất ma túy vào túi trong bên trái áo khoác rồi quay lại lên xe taxi đi đến phố Phan Đình Phùng thì xuống xe, đang trên đường đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Quán Thánh bắt quả tang, thu giữ số ma túy của bị cáo, qua giám định gồm 3,561 gam MDMA, 0,855 gam Ketamine và thu giữ của bị cáo 220.000 đồng, một điện thoại di động Nokia Nokia 5.3 màu đen đã qua sử dụng.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa.Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng các loại ma túy là chất gây nghiện được nhà nước thống nhất quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi phạm tội liên quan đến ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy, mặt khác hành vi phạm tội của bị cáo còn gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác vì vậy cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.Nhân thân chưa có tiền án, tiền sự,bị cáo đã có thời gian phục vụ trong quân đội tại Cục hậu cần – Bộ tổng tham mưu,quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải.Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm s khoản 1,khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5].Về xử lý vật chứng: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư, hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình là vật cấm lưu hành, nên cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy này.

Đối với số tiền 220.000 đồng và một điện thoại di động Nokia 5.3 màu đen đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1,khoản 2 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Tống Trang S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Tống Trang S 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/01/2021 đến ngày 08/02/2021.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01(Một) bao niêm phong bên trong có 3,561gam ma túy MDMA và 0,855 gamma túy loại Ketamine đã giám định bên ngoài có chữ ký của giám định viên và đối tượng ; Trả lại cho bị cáo Tống Trang S: 220.000 đồng, theo giấy nộp tiền vào tài khoản số : 39491061691 ngày 13/5/2021 của Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình; 01 Điện thoại di động Nokia 5.3 màu đen có số IMEI 1: 355792104441145,EMEI 2: 355792104446847.Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, theo biên bản giao nhận vật chứng số :162/THA ngày 13/05/2021 giữa Công an quận Ba Đình với Chi Cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 116/2021/HS-ST ngày 19/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về