Bản án 116/2020/HSST ngày 30/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 116/2020/HSST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 138/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 134/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

TÔ NGỌC Q sinh ngày 10 tháng 5 năm 2001 tại Đắk Nông. Nơi đăng ký thường trú: xóm 3, xã G, huyện I, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tô Thanh H, sinh năm 1973 (chết) và bà Bùi Thị T, sinh năm 1975; tiền án, tiền sự: không; bị can bị tạm giam từ ngày 13/8/2018 đến ngày 20/11/2018 thì được áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Đến ngày 26/7/2020 tiếp tục bị tạm giam cho đến nay (có mặt) - Bị hại: Chị Lê Phạm Huy C, sinh năm 1994 (vắng mặt) Nơi cư trú: 71/15/20/8 Đường Y, phường A, quận B, TP.Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quách Kim Z là bạn của chị Nguyễn Thị Kim Â, chị  thuê phòng trọ tại khu nhà trọ số 71/15/20/8 Đường Y, Phường A, quận B. Z thường đến phòng trọ của chị  chơi, thỉnh thoảng ngủ tại đây nên biết được quy luật sinh hoạt của khu nhà trọ. Trưa ngày 02/8/2018, chị  đưa chìa khóa xe máy của mình (có gắn sẵn chìa khóa mở cửa khu trọ) cho Z nhờ đi mua cơm, khi đi mua cơm thì Z tự ý đến tiệm sửa chìa khóa tại ngã ba đường I – Nhà thờ V gặp anh Phạm Quốc F nhờ làm thêm một chìa khóa mở cửa ra vào khu nhà trọ của  (lấy chìa khóa của  làm mẫu) với giá 10.000 đồng. Sau khi có chìa khóa, vào khoảng 23 giờ 30 ngày 02/8/2018, Z đi bộ ra cầu số 7 kênh NLgặp Tô Ngọc Q thuê Q sử dụng chìa khóa Z làm sẵn vào khu nhà trọ trên lấy xe máy ra ngoài thì được trả công là 500.000 đồng, Q hiểu là cùng Z lấy trộm xe máy và đồng ý cùng thực hiện hành vi. Z cùng Q đi bộ đến khu nhà trọ để lấy trộm xe máy, trên đường đi Z điện thoại cho Trần Ngọc K báo cho biết khoảng 02 giờ ngày 03/8/2018 sẽ có xe bán cho K (K biết xe Z sẽ bán cho mình là xe do phạm tội mà có), K đồng ý và nói Z khi nào có xe thì điện thoại cho K đến mua.

Đến 02 giờ cùng ngày, Z và Q đi bộ đến khu nhà trọ số 71/15/20/8 Đường Y, Phường A, quận B, Z đưa chìa khía nhà trọ cho Q và dặn khi vào nhà trọ thì mở cửa vào, đi bộ lên lầu rồi xuống lấy xe tay ga không khóa cổ. Q cầm chìa khóa mở cửa đi vào nhà trọ còn Z đứng phía ngoài cách nhà trọ khoảng 10m chờ Q. Q đi lên sân thượng, cởi bỏ chiếc áo đang mặc trên người và lấy một chiếc áo thun khác có sẵn, đi xuống tầng 3 lấy một đôi dép xốp và xuống tầng trệt dắt một chiếc xe máy hiệu Honda Vision màu đen, biển số 75K1-267.37 không khóa cổ, dựng ở giữa hai dãy xe của chị Phạm Lê Huy C.Trong lúc Q đang trong nhà lấy xe thì Z gọi cho K hẹn gặp nhau tại trước nhà số 154/18 I, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh để bán xe. Sau khi lấy được chiếc xe ra khu nhà trọ, Q khóa cửa nhà trọ lại, dẫn xe đến chỗ của Z đang đứng chờ sẵn và trả lại chìa khóa cho Z, Z lên xe ngồi và Q đẩy xe cùng Z đến chỗ gặp K, tại đây Z cho K biết chiếc xe mua bán là xe mà Q vừa lấy trộm được. K điều khiển xe máy của mình chở Q còn nguyên ngồi trên xe vừa trộm được để K đẩy về nhà tại địa chỉ 159/75 Đường X, Phường J, Quận L để cất giấu xe. Sau đó, Z, Q và K cùng đến quán cà phê lề đường khu dân cư 155 Đường NT, Phường 9, Quận L để trao đổi việc mua bán xe. K đồng ý mua chiếc xe mới trộm được với giá 10.000.000 đồng, đưa trước cho Z 5.000.000 đồng và hẹn chiều cùng ngày sẽ đưa tiếp cho Z số tiền còn lại thì Z đồng ý. K cho Z mượn xe máy, Z chở Q trở về cầu số 7, kênh NL và đưa cho Q số tiền là 500.000 đồng tiền công và Z vứt chìa khóa khu nhà trọ xuống kênh NL. Đến 16 giờ cùng ngày, Z điều khiển xe máy đến nhà K để trả lại xe và lấy số tiền bán xe K còn thiếu nhưng K chỉ trả Z 3.500.000 đồng.

K lên trang Facebook “xe không giấy”, lấy tên tài khoản “Trần K” cùng số điện thoại của mình rao bán xe máy hiệu Honda Vision màu đen, biển số 75K1- 267.37 với giá 14.500.000 đồng. Ngày 04/8/2018 Phạm Ngọc SN lên trang mạng Facebook vào trang “xe không giấy (xe noop)” thấy thông tin rao bán xe của K nên báo cho Lê Xuân HI biết và cả hai cùng hẹn K để mua xe. Khoảng 11 giờ 30 cùng ngày, SN và HI đi taxi grab đến trước chợ Hòa Hưng và điện thoại cho K hẹn gặp nhau tại đây để xem xe, giao dịch mua bán. Tại đây, sau khi xem xe máy hiệu Honda Vision màu đen, biển số 75K1-267.37, K cho biết xe này do trộm cắp mà có, xe trộm đã lâu tại Bình Phước đã thay biển số, sau khi thương lượng giá, K đồng ý bán xe cho HI và SN với giá 12.500.000 đồng.

Sau khi mua xe về, HI cung cấp số khung, số máy, kiểu dáng xe cho SN nhờ làm giả bộ giấy đăng ký xe, chứng minh nhân dân và biển số xe. SN lên trang mạng Facebook “xe không giấy (xe noop)” liên hệ với Bùi Vũ HG có tài khoản Facebook “Khói Trắng” chuyên làm giấy tờ giả. SN đặt HG làm bộ giấy tờ xe giả giấy đăng ký số khung, số máy trùng khớp với số khung, số máy xe máy Vision biển số 75K1- 267.37, chứng minh nhân dân và biển số xe với tổng giá 2.800.000 đồng. HG học được trên mạng Youtube khóa đồ họa vi tính và làm giấy tờ giả được khoảng 06 tháng. Để làm giả giấy đăng ký xe HG lấy giấy đăng ký xe thật ra làm mẫu, dùng kỹ thuật phần mềm Corel trên máy tính xách tay hiệu Acer của HG để vẽ lại các hoa văn sao cho giống với hoa văn trên giấy đăng ký xe thật. Mộc dấu HG vẽ lại trên máy vi tính sau đó in màu. Sau khi điền đầy đủ thông tin cần thiết, HG dùng máy in hiệu Epson để in và cắt ra. Giấy in là giấy trắng kích thước A4 loại dầy. Chữ ký của người có thẩm quyền, HG lấy mẫu chữ ký từ giấy thật sau đó tự ký để lên mộc dấu. Sau khi hoàn tất giấy giả, HG ép Plastic lại. Đối với với việc làm giả biển số xe, HG nhờ người quen trên trang mạng Facebook, giao dịch qua Zalo làm với giá 400.000 đồng. Sau khi hoàn tất giấy tờ xe giả, chứng minh nhân dân giả mang tên Trần Văn HU, sinh năm 1987, HKTT: 55 Bà Hom, Phường 13, Quận 6 và biển số 59K1- 989.19 giả, HG thuê Nguyễn Đăng KH đi giao cho SN (KH biết HG làm giấy tờ giả nhưng vẫn đồng ý đi giao để nhận tiền công) SN nhận được bộ giấy tờ xe giả cùng biển số xe giả, giao lại cho HI, HI thay biển số giả 59K1-989.19 vào xe trên, nhờ Hưng và Nhí (chưa xác định) dùng bộ giấy tờ giả này cùng xe đến tiệm cầm đồ ở Phú Nhuận cầm cố, tuy nhiên số khung trên giấy đăng ký xe giả khác với số khung trên xe Vision 1 chữ số cuối nên không cầm cố được, đối với biển số xe 75K1-267.37 (biển số thật) HI cất ở nhà số 28/27/60C Đường PT, Phường 7, quận PN, quá trình khám xét không thu giữ được, HI báo lại cho SN, SN nói HG làm lại bộ giấy tờ giả khác có số khung trùng với số khung xe Vision trên. Ngày 05/8/2018, SN nói HI đến quán nước trong hẻm đường Đường PL, quận PN để lấy giấy đăng ký xe giả mới do HG làm lại nhờ KH giao. HI nhận giấy đăng ký xe giả mới và trả lại giấy đăng ký xe giả cũ (do bị sai số) cho KH (do HI báo sai số nên lần này phải trả thêm 600.000 đồng tiền công làm giải bộ giấy đăng ký xe, chứng minh nhân dân và biển số xe mới). Đến trưa ngày 07/8/2018, HI đưa xe Vision biển số 59K1-989.19 (biển số giả) và giấy đăng ký xe, chứng minh nhân dân giả cho Hưng và Nhí đi cầm tại tiệm cầm đồ 24/24 địa chỉ 180 Đường NL, Phường 12, quận BT với giá 25.000.000 đồng, cả hai mang tiền về cho HI và được trả công 3.000.000 đồng, HI cho SN 1.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe máy hiệu Honda Vision, màu đen nhám biển số 75K1-267.37, số khung 5808EY855249, số máy JF58E0855259 trị giá 26.000.000 đồng, đã trả lại cho chị Phạm Lê Huy C.

- 01 xe đạp màu bạc đã qua sử dụng, 01 áo ngắn tay màu xám, 01 đôi dép kẹp màu trắng đen thu giữ của Tô Ngọc Q. Q khai nhận dùng số tiền 500.000 đồng có được do Z chia sau khi bán xe Vision trộm cắp để mua chiếc xe đạp với giá 250.000 đồng. Áo thun và đôi dép Q lấy tại phòng trọ số 71/15/20/8 Đường Y, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 25/02/2020 Tòa án nhân dân quận B đã xét xử các bị cáo Quách Kim Z, Trần Ngọc K, Lê Xuân HI, Phạm Ngọc SN, Vũ HG và Trần Đăng KH và giải quyết các vật chứng trong bản án số 11/2020/HSST.

Đối với Tô Ngọc Q, ngày 20/11/2018 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh sau đó cắt chuyển hộ khẩu về xóm 3, xã G, huyện I, tỉnh Nam Định. Kết quả xác minh Q không có mặt tại địa phương, không xác định được nơi ở thực tế. Ngày 20/12/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình ra Quyết định truy nã đối với Q. Ngày 26/7/2020, Công an xã G, huyện I, tỉnh Nam Định bắt giữ được Q sau đó bàn giao cho cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Tân Bình. Quá trình điều tra và biên bản hỏi cung, Q thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình Tại bản cáo trạng số 124/CT-VKS ngày 14 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Tô Ngọc Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội và khai giống lời khai tại cơ quan điều tra.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Tô Ngọc Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đồng thời đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 9 đến 12 tháng tù, về vật chứng: Đã được xử lý trong bản án hình sự số 11/2020/HSST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Tô Ngọc Q, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ quá trình điều tra, truy tố, diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra bị cáo có người bào chữa là ông Nguyễn Huỳnh Bích, trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên ngày 16/9/2020 bị cáo đã có yêu cầu từ chối người bào chữa nên không cần thiết triệu tập người bảo chữa tham gia phiên tòa.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa thông qua lời khai của bị cáo, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án thì Tô Ngọc Q đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe Honda Vision màu đen nhám biển số 75K1-267.37, số khung 5808EY855249, số máy JF58E0855259 trị giá 26.000.000 đồng vào khoảng 02 giờ 00 ngày 03/8/2018 tại số 71/15/20/8 Đường Y, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật và Nhà nước bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, có năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội do lỗi cố ý nên Hội đồng xét xử xét thấy đã đủ cơ sở pháp lý để kết luận bị cáo Tô Ngọc Q đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ:

Xét khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, nhận thức còn hạn chế nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xem xét khi lượng hình. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đã được xử lý trong bản án hình sự số 11/2020/HSST ngày 25/02/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

Đối với số tiền 500.000 đồng, Z chia cho bị cáo sau khi bán xe Vision trộm cắp, bị cáo mua chiếc xe đạp với giá 250.000 đồng, còn 250.000 đồng bị cáo lấy ra tiêu xái cá nhân. Xét chiếc xe đạp đã được xử lý, số tiền 250.000 đồng là tiền thu lợi bất chính, buộc bị cáo phải nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết trong bản án hình sự số 11/2020/HSST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 106; Điều 268, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 38; Điều 47; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

1. Tuyên bố bị cáo Tô Ngọc Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: TÔ NGỌC Q 9 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 26/7/2020 khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2018 đến ngày 20/11/2018 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh.

2. Buộc bị cáo Tô Ngọc Q phải nộp số tiền 250.000 (hai trăm năm mươi ngàn) đồng thu lợi bất chính vào ngân sách nhà nước.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hoặc ngày Tòa án tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Hội đồng xét xử đã giải thích về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án cho đương sự theo quy định tại điều 26 Luật Thi hành án được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2020/HSST ngày 30/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:116/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về