Bản án 116/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 116/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 115/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Tấn P, sinh năm: 1998, tại: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: 131 B3, khu vực C, phường H P, quận C R, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc H và bà Đào Thị Ngọc P; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/3/2020, sau đó bỏ trốn đến ngày 21/10/2020 bị bắt theo quyết định truy nã. (có mặt)

Bị hại: Bà Huyền Liễu M, sinh năm 1980 Nơi cư trú: ấp Đ B, xã D T, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin xét xử vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Trung T, sinh năm 1987 Nơi cư trú: .... F1/12, khu vực A, phường An K, quận N K, thành phố Cần Thơ (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 20/9/2020 Nguyễn Tấn P được chị Huyền Liễu M là chủ khách sạn My hotel nhận vào làm công việc dọn phòng tại khách sạn. Ngày 21/9/2020, chị M có việc riêng đi ra ngoài nên giao chìa khóa các phòng của khách sạn trong đó có cả chìa khóa phòng của chị M cho P dọn dẹp và trông coi khách sạn. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng, P nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của chị M nên đã dùng chìa khóa mở phòng riêng của chị M lấy trộm số tiền 8.000.000 đồng được chị M để trong hộc tủ đồ và một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 68C1-282.05 mang tên Huyền Liễu M. Sau đó, P dùng điện thoại di động truy cập internet và vào Zalo kết bạn với anh Nguyễn Trung T làm nghề mua bán xe tại thành phố Cần Thơ, P chụp giấy chứng nhận đăng ký xe môt tô của chị M gửi cho anh T và nói là xe của mẹ P cần bán, T đồng ý mua xe với giá 23.500.000 đồng. Khi thỏa thuận giá cả với T xong, P nhờ Phạm Tấn M là người thuê kiot bán hàng trong khu vực khách sạn..... hotel trông coi khách sạn dùm cho chị M, còn P lấy chìa khóa xe chị M để lại tại quầy lễ tân rồi lấy trộm xe nhãn hiệu SH mode màu trắng-nâu biển kiểm soát số 68C1-2....5 điều khiển xuống cảng Bãi Vòng mua vé tàu đi Rạch Gía, rồi điều khiển xe đến thành phố Cần Thơ bán cho anh T với số tiền 23.500.000 đồng, P dùng số tiền này mua quần áo và tiêu xài cá nhân.

Ngày 05/3/2020 Nguyễn Tấn P bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc khởi tố bị can và cấm đi khỏi nơi cư trú, nhưng P bỏ trốn đến ngày 21/10/2020 bị bắt theo quyết định truy nã.

* Tang vật thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu honda SH Mode, màu trắng nâu, biển số 68C1-2...5, số khung 5105DY001828, số máy JF51E001581, đã qua sử dụng; 01 giấy đăng ký xe mô tô Honda SH Mode số 049226 tên Huyền Liễu M đã qua sử dụng. Do anh Nguyễn Trung T giao nộp và đã trả cho chị Liễu Huyền M.

- 01 ba lô vải màu xanh-trắng, hiệu MRMBAG; 01 áo khoát nam dài tay, màu tím, bằng vải dù, màu xanh hiệu XXME; 01 áo nam ngắn tay, màu tím, bằng vải, hiệu GILDAM; 01 áo nam ngắn tay, màu trắng, bằng vải, hiệu INC; 01 áo nam ngắn tay, màu xanh, bằng vải, hiệu GRIMNDC; 01 áo nam ngắn tay, màu hồng, bằng vải, hiệu GRIMNDC; 01 quần sọt ngắn, quần nam, màu đen, bằng vải hiệu GRIMNDC; 01 quần dài, bằng vải, màu đen đỏ, quần nam hiệu KAPPA; 01 quần dài nam, màu đen, bằng thun, hiệu HENGOINI. (Nguyễn Tấn P giao nộp) Tại bản kết luận định giá số 65/KL-HĐĐGTS ngày 18/10/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Phú Quốc kết luận: xe mô tô nhãn hiệu Hoda SH Mode, màu trắng-nâu, biển số 68C1-282.05, số khung 5105DY001828, số máy JF51E001581 đã qua sử dụng, có giá trị 30.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá số 65/KL-HĐĐGTS ngày 18/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

Bản cáo trạng số 68/CT-VKSPQ ngày 26 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã truy tố bị cáo Nguyễn Tấn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Phần tranh luận, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Tấn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s, i khoản 1 Điều 51 BLHS; Điều 38 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn P từ 09 đến 12 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự ; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên trả lại cho bị cáo: 01 ba lô vải màu xanh-trắng, hiệu MRMBAG; 01 áo khoát nam dài tay, màu tím, bằng vải dù, màu xanh hiệu XXME; 01 áo nam ngắn tay, màu tím, bằng vải, hiệu GILDAM; 01 áo nam ngắn tay, màu trắng, bằng vải, hiệu INC; 01 áo nam ngắn tay, màu xanh, bằng vải, hiệu GRIMNDC; 01 áo nam ngắn tay, màu hồng, bằng vải, hiệu GRIMNDC; 01 quần sọt ngắn, quần nam, màu đen, bằng vải hiệu GRIMNDC; 01 quần dài, bằng vải, màu đen đỏ, quần nam hiệu KAPPA; 01 quần dài nam, màu đen, bằng thun, hiệu HENGOINI.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu honda SH Mode, màu trắng nâu, biển số 68C1-2...5, số khung 5105DY001828, số máy JF51E001581, đã qua sử dụng; 01 giấy đăng ký xe mô tô Honda SH Mode số 049226 tên Huyền Liễu M đã trả cho chủ sở hữu đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Huyền Liễu M yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 8.000.000 đồng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án yêu cầu bồi thường 23.500.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường cho chị M 8.000.000 đồng và đồng ý bồi thường cho anh Nguyễn Trung T số tiền 23.500.000 đồng, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng viện kiểm sát truy tố và lời nói sau cùng của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã tuân thủ nghiêm các quyền và nghĩa vụ của mình, thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, vắng mặt các bị hại là chị Huyền Liễu M, nhưng bị hại đã có lời khai trong quá trình điều tra và có đơn xin xét xử vắng mặt, nên không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Do đó, căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị hại.

[3] Đánh giá chứng cứ: vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/9/2020 lợi dụng sự tin tưởng của chị Huyền Liễu M, bị cáo Nguyễn Tấn P đã lấy trộm của chị M số tiền 8.000.000 đ và một xe môt tô SH Mode biển số 68C1-2....5, có giá trị qua định giá là 30.000.000 đồng. Như vậy, tổng tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị 38.000.000 đồng (Ba mươi tám triệu đồng).

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Tấn P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử nghị cần xử bị cáo một mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cũng phòng ngừa chung cho xã hội đối với loại tội phạm này.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 48 BLHS; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo: 01 ba lô vải màu xanh-trắng, hiệu MRMBAG; 01 áo khoát nam dài tay, màu tím, bằng vải dù, màu xanh hiệu XXME; 01 áo nam ngắn tay, màu tím, bằng vải, hiệu GILDAM; 01 áo nam ngắn tay, màu trắng, bằng vải, hiệu INC; 01 áo nam ngắn tay, màu xanh, bằng vải, hiệu GRIMNDC; 01 áo nam ngắn tay, màu hồng, bằng vải, hiệu GRIMNDC; 01 quần sọt ngắn, quần nam, màu đen, bằng vải hiệu GRIMNDC; 01 quần dài, bằng vải, màu đen đỏ, quần nam hiệu KAPPA; 01 quần dài nam, màu đen, bằng thun, hiệu HENGOINI.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Huyền Liễu M yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 8.000.000 đồng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án yêu cầu bồi thường số tiền 23.500.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo.

[8] Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ: khoản 1 Điều 173, điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn P phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Nguyễn Tấn P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 48 BLHS; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo: 01 ba lô vải màu xanh-trắng, hiệu MRMBAG; 01 áo khoát nam dài tay, màu tím, bằng vải dù, màu xanh hiệu XXME; 01 áo nam ngắn tay, màu tím, bằng vải, hiệu GILDAM; 01 áo nam ngắn tay, màu trắng, bằng vải, hiệu INC; 01 áo nam ngắn tay, màu xanh, bằng vải, hiệu GRIMNDC; 01 áo nam ngắn tay, màu hồng, bằng vải, hiệu GRIMNDC; 01 quần sọt ngắn, quần nam, màu đen, bằng vải hiệu GRIMNDC; 01 quần dài, bằng vải, màu đen đỏ, quần nam hiệu KAPPA; 01 quần dài nam, màu đen, bằng thun, hiệu HENGOINI.

(Tang vật trên đã được chuyển giao cho chi cục thi hành án Dân sự huyện Phú Quốc theo quyết định chuyển giao vật chứng số 37/QĐ-VKSPQ-HS ngày 26/10/2020) 3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 BLHS năm 2015 và Điều 589 BLDS năm 2015 ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo đồng ý sẽ bồi thường cho bị hại Huyền Liễu M số tiền 8.000.000 đồng, bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Trung T 23.500.000 đồng.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, Mễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.575.000 đồng án phí dân sụ sơ thẩm có giá ngạch.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:116/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về