TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 116/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN, TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số116/2018/TLST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Quản Văn T, sinh ngày 05 tháng 01 năm 1983 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
Nơi cư trú: Đường H, khu C, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quản Văn H, sinh năm 1932 và bà Đào Thị H, sinh năm 1946; vợ, con chưa có; tiền án: Có 01 tiên an tai ban an sô 22/2010/HS-ST ngay 15 tháng 4 năm 2010 của Tòa án nhân dân huyện L ạng Giang, tỉnh Bắc Giang xư phat 24 tháng tu vê tôi Tàng trữ trái phép chất ma túy , đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 16 tháng 01 năm 2012, hình phạt bổ sung phạt tiền 5.000.000 đồng và án phí 200.000 đồng chưa chấp hành; tiền sự không có; bị tạm giư , tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng từ ngày 04 tháng 9 năm 2018 đến ngày 12 tháng 11 năm 2018 chuyển lên Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.
2. Hoàng Quốc T, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1980 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
Nơi cư trú: Đường X, khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Quốc S, sinh năm 1939 và bà Hạ Thị V, sinh năm 1943; vơ, con chưa có; tiền án, tiền sự không có; nhân thân: Ngày 30 tháng 3 năm 2001 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, 02 năm tù về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, theo bản án hình sự sơ thẩm số: 52/HS-ST, năm 2004 chấp hành xong bản án và bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng theo quyết định số: 1599/QĐ-UBND ngày 16 tháng 5 năm 2008 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Lạng Sơn, ngày 15 tháng 5 năm 2010 đã chấp hành xong; bị tạm giư, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hữu Lũng từ ngày 04 tháng 9 năm 2018 đến ngày 09 tháng 10 năm 2018 chuyển lên Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hạ Thị V, sinh năm 1943. Địa chỉ: Đường X, khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1981. Địa chỉ: Thôn N, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1992. Địa chỉ: Thôn C, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
3. Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1987. Đường H, khu C, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
4. Anh Đàm Xuân T, sinh năm 1993. Địa chỉ: Khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 09 giờ ngày 04 tháng 9 năm 2018 tại km 89 Quốc lộ 1A thuộc thôn L, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn, Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với tổ tuần tra Cảnh sát giao thông T D thuộc phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lạng Sơn kiểm tra xe mô tô biển kiểm soát 12K5 - 4198 do Hoàng Quốc T sinh năm 1980, trú tại số nhà 164, đường X, khu T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn điều khiển, ngồi sau là Quản Văn T sinh năm 1983, trú tại đường H, khu C, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Kiểm tra người của Quản Văn T phát hiện 01 bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có 01 túi nilon màu trắng, miệng kẹp dính, phần miệng kéo dài, vát hình trụ, kích thước 05cm x 02cm, trong đựng chất ở thể rắn màu trắng; 01 túi nilon màu trắng, miệng kẹp dính, phần miệngkéo dài, vát hình trụ, kích thước 04cm x 1,5cm trong đựng chất ở thể rắn màu trắng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu trắng; kiểm tra người của Hoàng Quốc T phát hiện 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu đen. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang , thu giư các vât chưng noi trên và tạm giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 12K5 - 4198.
Ngày 16 tháng 9 năm 2018 Công an huyện Hữu Lũng tiến hành khám xét chỗ ở của Quản Văn T, phát hiện và thu giữ tại buồng ngủ 36 đoạn ống hút nhựa dài 02 cm, một đầu hàn kín, một đầu hở trong không đựng gì, trong đó có 33 đoạn ống hút màu trắng, 03 đoạn ống hút màu xanh và 01 đoạn ống hút nhựa dài 05 cm sọc màu đỏ vàng, một đầu vát nhọn. Tất cả được đựng trong bình thủy tinh màu trắng để ở trên bàn trong phòng ngủ.
Tại bản kết luận giám đinh sô 317/KL-PC09 ngày 06 tháng 9 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tinh Lạng Sơn kết luận, chất ở thể rắn màu trắng có trong 02 túi nilonthu giư cua Quản Văn T khi băt qua tang đươc niêm phong trong phong bi thư gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine , có tổng khối lượng 1,072 gam, đã trừ bì.
Quá trình điều tra đã làm rõ: Quản Văn T và Hoàng Quốc T đều là đối tượng nghiện chất ma túy đá (Methamphetamine), đã cùng nhau đi mua ma túy về cùng sử dụng nhiều lần. Sáng ngày 04 tháng 9 năm 2018, Quản Văn T gọi điện thoại bảo Hoàng Quốc T đưa xuống thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang mua ma túy, Hoàng Quốc T đồng ý và sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 12K5 - 4198 chở Quản Văn T đi. Trên đường đi Hoàng Quốc T sử dụng điện thoại di động của mình gọi cho một người đàn ông hỏi mua ma túy, do đang lái xe nên Hoàng Quốc T đưa điện thoại cho Quản Văn T nói chuyện, hẹn địa điểm giao dịch. Sau đó Quản Văn T, Hoàng Quốc T đi đến khu vực nghĩa trang thuộc ngã tư thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, Quản Văn T gặp và mua 02 gói ma túy đá của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ với giá tiền 1.000.000 đồng. Mua xong Quản Văn T cất giấu ma túy vào trong người và cùng Hoàng Quốc T đi về. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, khi Quản Văn T, Hoàng Quốc T đi xe mô tô về đến km 89, Quốc lộ 1A, thuộc thôn L, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an bắt quả tang.
Đối với Quản Văn T, ngày 04 tháng 9 năm 2018, Quản Văn T mua ma túy về mục đích để sử dụng và bán cho những người nghiện có nhu cầu, trước đó Quản Văn T đã bán trái phép chất ma túy cho nhiều người, nhiều lần. Cụ thể như sau:
Bán cho Nguyễn Mạnh H sinh năm 1992, trú tại thôn C, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn 04 đến 05 lần, lần gần nhất vào ngày 02 tháng 9 năm 2018, 01 gói với giá tiền 200.000 đồng, tại nhà của Quản Văn T.
Bán cho Nguyễn Đức T sinh năm 1981, trú tại thôn N, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn 02 lần, lần gần nhất vào ngày 02 tháng 9 năm 2018, 01 gói với giá tiền200.000 đồng, tại nhà của Quản Văn T.
Bán cho Nguyễn Quang T sinh năm 1987, trú tại đường H, khu C, thị trấnH, huyện H, tỉnh Lạng Sơn 01 lần vào đầu tháng 8 năm 2018, 01 gói với giá tiền 200.000 đồng, tại nhà của Quản Văn T.
Bán cho Đàm Xuân T sinh năm 1993, trú tại khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn 01 lần vào cuối tháng 8 năm 2018, 01 gói với giá tiền 300.000 đồng, tại nhà của Quản Văn T.
Ngoài ra, Quản Văn T còn khai nhận bán cho Lâm Văn L sinh năm 1985, trú tại thôn N, xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn 03 đến 04 lần, lần gần nhất khoảng đầu tháng 8 năm 2018, 01 gói với giá tiền 300.000 đồng.
Đối với Hoàng Quốc T, Hoàng Quốc T biết Quản Văn T đi mua ma túy về sử dụng vẫn sử dụng phương tiện do mình quản lý chở đi và sử dụng điện thoại của mình để liên lạc giúp Quản Văn T mua ma túy. Sau khi Quản Văn Tmua được ma túy, Hoàng Quốc T đã chở Quản Văn T cùng số ma túy về nhà. Mục đích Hoàng Quốc T chở Quản Văn T và ma túy là để khi về đến nhà, Quản Văn T trả công cho Hoàng Quốc T bằng hình thức cho Hoàng Quốc T sử dụng ma túy, ngoài ra Hoàng Quốc T không biết Quản Văn T có mục đích gì khác.
Về vật chứng: Quá trình điều tra làm rõ có liên quan đến hành vi phạm tội gồm 02 (túi nilon chứa chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 1,072 gam thu giư cua Quản Văn T là ma túy Quản Văn T mua về sư dung và bán lại ; 37 đoạn ống hút để trong bình thủy tinh Quản Văn T dùng để đựng ma túy; 02 điện thoại di động là của Quản Văn T và Hoàng Quốc T sử dụng vào việc liên lạc mua bán ma túy và 01 xe mô tô Hoàng Quốc T sử dụng chở Quản Văn T đi mua ma túy là của gia đình Hoàng Quốc T.
Tại bản Cáo trạng số: 118/CT-VKSHL-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Quản Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hoàng Quốc T về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, các bị cáo Quản Văn T, Hoàng Quốc T giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra và khẳng định các bị cáo bị truy tố, xét xử về các tội mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy là đúng.
Bà Hạ Thị V khẳng định xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 12K5 – 4198 là tài sản của bà mua để làm phương tiện đi lại, bà không biết việc bị cáo Hoàng Quốc T sử dụng xe mô tô làm phương tiện vận chuyển ma túy, bà yêu cầu xin lại chiếc xe.
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng thời đánh giá động cơ, mục đích, tác hại của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Quản Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hoàng Quốc T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự.
Về hình phạt:
1. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Quản Văn T từ 09 đến 10 năm tù.
2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Quốc T từ 03 đến 04 năm tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo vì các bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 02 túi nilon màu trắng miệng kẹp dính trong đựng chất ở thể rắn màu trắng (cũ),có chữ kỹ cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H1, trợ lý giám định và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại giáp lai mới, bên trong có mẫu vật hoàn trả sau giám định; 33 đoạn ống hút màu trắng dài 02 cm, một đầu hàn kín, một đầu hở trong không đựng gì; 03 đoạn ống hút mầu xanh dài 02 cm, một đầu hán kín, một đầu hở trong không đựng gì;01 đoạn ống hút nhựa mầu sọc vàng dài 05 cm, một đầu vót nhọn trong không đựng gì; 01 bình thủy tinh mầu trắng; 01 vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long mầu vàng, bên trong không đựng gì do có liên quan đến hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động, trong đó 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 355133064922784, Imei 2: 355133064922792 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu trắng, số Imei: 359066/04/109209/7 là của Quản Văn T và Hoàng Quốc T sử dụng vào việc liên lạc mua bán ma túy do có liên quan đến hành vi phạm tội còn giá trị sử dụng.
Trả lại cho bà Hạ Thị V 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát12K5 – 4198, mầu sơn đỏ đã qua sử dụng là ma túy.
Truy thu của bị cáo Quản Văn T số tiền 1.200.000 đồng là tiền bán ma túy mà có.
Phần tranh luận: Không ai có ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng: Các bị cáo Quản Văn T, Hoàng Quốc T xin được giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng là các anh Nguyễn Đức T, Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Quang T, Đàm Xuân T đều không có lí do. Nhưng trước đó đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, sự vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến phiên tòa hôm nay nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Quản Văn T, Hoàng Quốc T đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra, lời khai của các bị cáo phù hợp với các vật chứng được thu giữ, phù họp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, cụ thể: Quản Văn T và Hoàng Quốc T đều là đối tượng nghiện chất ma túy đá (Methamphetamine) để có ma túy sử dụng , Quản Văn T, Hoàng Quốc T thương đi xuông thị trấn K , huyên L, tỉnh Băc Giang mua ma tuy vơi môt ngươi đan ông không biêt tên , tuôi, đia vê để sử dụng . Ngày 04 tháng 9 năm 2018, Quản Văn T bảo Hoàng Quốc T đưa xuống thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang mua ma túy, Hoàng Quốc T đã dùng xe mô tô biển kiểm sát 12K5 – 4198 chở Quản Văn T đi mua ma túy, đến 09 giờ cùng ngày khi về đến km 89 Quốc lộ 1A thuộc thôn L, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn thì bị bắt quả tang. Số ma túy thu giữ có khối lượng 1,072 gam là chất Methamphetamine. Số ma túy trên Quản Văn T mua về để sử dụng đồng thời để bán lại cho người khác. Trước đó Quản Văn T đã nhiều lần bán ma túy cho nhiều người. Hoàng Quốc T được Quảng Văn T bảo đưa đi mua ma túy đã dùng xe mô tô chở Quảng Văn T đi mục đích để được Quản Văn T cho sử dụng ma túy, Hoàng Quốc T không biết việc Quản Văn T bán ma túy cho nhiều người khác. Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Quản Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hoàng Quốc T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1Điều 250 Bộ luật Hình sự.
[3] Cáo trạng số: 118/CT-VKSHL-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Quản Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hoàng Quốc T về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý của nhà nước về ma túy, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, gây bất bình trong dư luận xã hội. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được tác hại của ma túy đối với bản thân các bị cáo và đối với mọi mặt của đời sống xã hội, các bị cáo nhận thức được hành vi mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu bản thân và coi thường pháp luật nên các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo là độc lập, các bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi đã thực hiện và cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật để răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.
[5] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt.
[6] Về nhân thân: Bị cáo Quản Văn T tuy không có tiền sự nhưng đã có01 tiền án . Bị cáo Hoàng Quốc T không có tiên an , tiền sự nhưng cùng là đối tượng nghiện chất ma túy nên xác định các bị cáo có nhân thân xấu.
[7] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Hoàng Quốc T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Quản Văn T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bô luât Hinh sự.
[8] Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Quản Văn T, Hoàng Quốc T đã thành khân khai bao , ăn năn hô i cải về hành vi của mình và đều có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Kỷ niệm chương, Huân chương kháng chiến nên cùng đươc hương tình tiết giảm nhẹ quy đinh tai điêm s khoan 1, khoản 2 Điêu 51 Bô luât Hình sự.
[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, việc cách ly các bị cáo Quản Văn T, Hoàng Quốc T ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định là cần thiết.
[10] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Quản Văn T thuộc diện hộ gia đình nghèo, các bị cáo Quản Văn T, Hoàng Quốc T không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.
[11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Quản Văn T, Quản Văn T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan điều tra đã xác minh theo số điện thoại của Hoàng Quốc T và Quản Văn T liên lạc, chủ số thuê bao là Bùi Văn T1, trú tại thôn M, xã A, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Nhưng Bùi Văn T1 không có mặt ở địa phương nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở kết luận. Khi nào làm rõ sẽ xem xét xử lý sau.
[12] Đối với Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Đức T, Nguyễn Quang T và Đàm Xuân T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện H đã xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp theo quy định.
[13] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Cần tịch thu tiêu hủy 02 túi nilon màu trắng bên trong có mẫu vật hoàn trả sau giám định, 33 đoạn ống hút màu trắng, 03 đoạn ống hút mầu xanh, 01 đoạn ống hút nhựa mầu sọc vàng, 01 bình thủy tinh mầu trắng, 01 vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu T L mầu vàng; tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động của Quản Văn T, Hoàng Quốc T sử dụng vào việc liên lạc mua bán ma túy; truy thu của bị cáo Quản Văn T số tiền 1.200.000 đồng do phạm tội mà có; trả lại cho bà Hạ Thị V 01 xe mô tônhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 12K5 – 4198 là tài sản của bà Hạ Thị V như đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị là có căn cứ.
[14] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[15] Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Quản Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Hoàng Quốc T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Quản Văn T 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04 tháng 9 năm 2018.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng Quốc T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04 tháng 9 năm 2018.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;
khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 02 túi nilon màu trắng miệng kẹp dính trong đựng chất ở thể rắn màu trắng (cũ),có chữ kỹ cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H1, trợ lý giám định và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại giáp lai mới, bên trong có mẫu vật hoàn trả sau giám định; 33 đoạn ống hút màu trắng dài 02 cm, một đầu hàn kín, một đầu hở trong không đựng gì; 03 đoạn ống hút mầu xanh dài 02 cm, một đầu hán kín, một đầu hở trong không đựng gì;01 đoạn ống hút nhựa mầu sọc vàng dài 05 cm, một đầu vót nhọn trong không đựng gì; 01 bình thủy tinh mầu trắng; 01 vỏ gói thuốc lá nhãn hiệu T L mầu vàng,bên trong không đựng gì.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động, trong đó 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen, số Imei 1: 355133064922784, Imei2: 355133064922792 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu trắng, số Imei: 359066/04/109209/7.
Trả lại cho bà Hạ Thị V 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát12K5 – 4198, mầu sơn đỏ đã qua sử dụng.
Truy thu của bị cáo Quản Văn T số tiền 1.200.000 đồng. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20 tháng 11 năm 2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn).
4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Các bị cáo Quản Văn T, Hoàng Quốc T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách nhà nước.
5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 116/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 116/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về