Bản án 1161/2018/HNGĐ-ST ngày 09/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ H CHÍ MINH

BẢN ÁN 1161/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 444/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 390/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Cao Thị Ngọc P

Thường trú: 54/3 Quốc lộ V, khu phố X, phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Ngọc T Thường trú: xã A, huyện B, Quảng Bình;

Cư trú: 54/3 Quốc lộ V, khu phố X, phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình tranh tụng tại Tòa bà Cao Thị Ngọc P là nguyên đơn trình bày: Bà và ông Nguyễn Ngọc T tự nguyện kết hôn vào năm 2008, có tổ chức hỏi cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi kết hôn đôi bên sống tự lập, theo bà cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông T không quan tâm đến vợ con, thiếu trách nhiệm với gia đình. Bà và gia đình hai bên đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng ông T vẫn không thay đổi, kể từ đầu năm 2015 cho đến nay cả hai sống ly thân. Trong thời gian ly thân, thỉnh thoảng ông T có về nhà thăm con một vài tiếng rồi lại ra đi, bà có tạo điều kiện để hàn gắn đoàn tụ nhưng ông T không đồng ý. Xét thấy tình cảm thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn.

Về con chung: Có một người con chung tên Nguyễn Cao Long H, sinh ngày 18/6/2004. Từ khi đôi bên ly thân cho đến nay con chung vẫn do bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con chung bà tự nguyện không yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà xác định ông T hiện cư trú tại 54/3 Quốc lộ V khu phố X, phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh, tuy không thường xuyên ở nhà nhưng ông vẫn đi đi về về. Ông T có nhận được giấy triệu tập của Tòa án nhưng cố tình không đến Tòa.

Ông Nguyễn Ngọc T là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để đến Tòa giải quyết vụ kiện nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do, theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông T.

Tại phiên Tòa bà P xác định cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó bà vẫn giữ yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn.

Về con chung: Bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung chưa trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, về tuân theo pháp luật: Tòa án nhân dân quận Thủ Đức và thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, về thụ lý vụ án, ra thông báo thụ lý vụ án, ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự thủ tục của pháp luật quy định. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Bà Cao Thị Ngọc P và ông Nguyễn Ngọc T tự nguyện kết hôn vào năm 2008 có hỏi cưới và có đăng ký kết hôn, theo chứng nhận kết hôn số 130, quyển số: 2008 ngày 21/7/2008 do Ủy ban nhân dân phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh cấp là cơ sở xác định hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Ông T có nơi cư trú tại phường Y, quận Z, đời sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, bà P là một bên đương sự, có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Cao Thị Ngọc P, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bà Cao Thị Ngọc P và ông Nguyễn Ngọc T tự nguyện kết hôn vào năm 2008, cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính theo lời trình bày của bà P do đôi bên bất đồng quan điểm sống, ông T thiếu trách nhiệm với gia đình, từ đó dẫn đến cuộc sống chung không mang lại hạnh phúc. Kể từ đầu năm 2015 cho đến nay cả hai đã sống ly thân, thời gian ly thân bà có tạo điều kiện để đoàn tụ gia đình nhưng ông T không đồng ý. Căn cứ vào đơn đề nghị xác nhận tạm trú của ông Nguyễn Ngọc T ngày 04/5/2018 do Công an phường Y, quận Z xác nhận thì ông Nguyễn Ngọc T sinh năm 1973 có tạm trú tại địa chỉ trên (số 54/3 Quốc lộ V, khu phố X, phường Y, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh) từ ngày 20/3/2017 đến nay. Tòa án đã thực hiện các thủ tục tống đạt giấy triệu tập cho ông T đến Tòa, để giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật nhưng ông T vẫn vắng mặt không lý do, điều này chứng tỏ ông T không quan tâm đến việc yêu cầu xin ly hôn của bà P, từ đó cho thấy thực tế tình trạng hôn nhân của đôi bên đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, đời sống chung không thể kéo dài, khả năng đoàn tụ không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, xét hiện tại đôi bên đã sống ly thân, việc bà P có đơn yêu cầu được ly hôn với ông T là có căn cứ, phù hợp với Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Xét hiện nay bà P đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung chưa trưởng thành, sau khi ly hôn bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con việc cấp dưỡng nuôi con chung bà tự nguyện không yêu cầu là hoàn toàn tự nguyện không trái với quy định của pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của con chung, theo Điều 81; 82; 83; 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Căn cứ vào lời trình bày của bà P về tài sản chung và nợ chung không có nên Hội đồng xét xử không xét. Ông Nguyễn Ngọc T có quyền khởi kiện tranh chấp tài sản sau khi ly hôn trong vụ án khác nếu có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Luật phí và lệ phí năm 2015 bà Cao Thị Ngọc P phải nộp 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) bà P đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0038701 ngày 27/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Cao Thị Ngọc P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 điều 147; Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Khoản 1 Điều 273; Điều 482 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 51; 56; 57; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Căn cứ Luật thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2014).

1-/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn:

a-/ Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Cao Thị Ngọc P và ông Nguyễn Ngọc T.

b-/ Về con chung: Giao bà Cao Thị Ngọc P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người con chung tên Nguyễn Cao Long H, sinh ngày 18/6/2004. Việc cấp dưỡng nuôi con chung bà P tự nguyện không yêu cầu.

Không ai được quyền ngăn cản việc thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, vì quyền lợi mọi mặt của người con khi cần thiết có thể thay đổi người nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

c-/ Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2-/ Về án phí: Bà Cao Thị Ngọc P phải nộp 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) bà P đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0038701 ngày 27/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Cao Thị Ngọc P đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3-/ Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014”;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1161/2018/HNGĐ-ST ngày 09/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1161/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về