Bản án 1160/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 

BẢN ÁN 1160/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 317/2020/TLST-HNGĐ ngày 5 tháng 03 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Phụng N, sinh năm: 1990; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 1352/13 Đường B T H, phường H, Quận MM, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: 156 L Đ C, phường B T Đ B, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Liêu Bảo P, sinh năm: 1983; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 235/21 C V L, phường H, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: 504/56/10 K D V, phường A L A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của bà Trần Phụng N cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ thì nội dung vụ án được xác định như sau:

Bà Trần Phụng N và ông Liêu Bảo P tự nguyện đăng ký kết hôn và chung sống với nhau vào năm 2015 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 42/2015, ngày 14/7/2015 do Ủy ban nhân dân phường H, Quận M M, Thành phố Hồ Chí Minh cấp. Trong quá trình chung sống cùng nhau, ông Liêu Bảo P thường xuyên ghen tuông vô cớ, kiếm chuyện gây gổ cãi vã, đánh đập bà Trần Phụng N. Bà Trần Phụng N đã nhiều lần đề nghị ly hôn nhưng ông Liêu Bảo P không đồng ý mà còn đe dọa làm bà Trần Phụng N rất lo sợ, đến năm 2018 ông Liêu Bảo P bị bắt và kết án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi cũng là lúc bà Trần Phụng N nhận thấy phải giải thoát cho mình sau nhiều năm chịu đựng. Nay bà Trần Phụng N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài nên làm đơn khởi kiện với yêu cầu cụ thể như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Phụng N yêu cầu được ly hôn ông Liêu Bảo P .

Về con chung: Bà Trần Phụng N và ông Liêu Bảo P có 01 (một) con chung tên Liêu Thiện N, sinh ngày 21/01/2016.

Bà Trần Phụng N yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung nêu trên.

 Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Phụng N không yêu cầu ông Liêu Bảo P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trần Phụng N tự khai không có.

Bị đơn - ông Liêu Bảo P hiện đang phải chấp hành hình phạt 13 năm tù về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Trại giam Mỹ Phước (xã Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang) theo bản án số 579/2019/HSPT ngày 27/9/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nên không thể có mặt tại Tòa án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, ghi lời khai của ông Liêu Bảo P như sau: Ông Liêu Bảo P đồng ý với lời khai của bà Trần Phụng N về các vấn đề như: Thời điểm hai bên xác lập quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung của vợ chồng. Về mâu thuẫn vợ chồng, theo ông Liêu Bảo P thì trong quá trình chung sống hai bên có xảy ra cãi vã, giận hờn nhưng không có mâu thuẫn gì lớn, nay bà Trần Phụng N yêu cầu ly hôn thì ông Liêu Bảo P không quyết định được.

Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Phụng N thì ông Liêu Bảo P có ý kiến như sau:

Về con chung: Ông Liêu Bảo P đồng ý giao con chung tên Liêu Thiện N, sinh ngày 16/01/2016 cho bà Trần Phụng N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do hiện tại ông Liêu Bảo P đang phải chấp hành hình phạt tù nên không có khả năng cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông Liêu Bảo P và bà Trần Phụng N không có tài sản chung, không có nợ chung.

Vụ án không tiến hành hòa giải được do vắng mặt bị đơn. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai.

Trước khi mở phiên tòa, nguyên đơn - bà Trần Phụng N và bị đơn – ông Liêu Bảo P có đơn xin vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu như tại đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản ghi lời khai.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Bình Tân phát biểu ý kiến và kết luận:

Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự, như: Thụ lý và giải quyết vụ kiện đúng thẩm quyền; Xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng; Tiến hành xác minh thu thập chứng cứ; Thông báo và tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự đúng quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Giao quyết định đưa vụ án ra xét xử, hồ sơ cho Viện Kiểm sát đúng thời hạn quy định.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án; Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Nhận thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Phụng N và ông Liêu Bảo P là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống cùng nhau hai bên đã phát sinh mâu thuẫn, ngoài ra, ông Liêu Bảo P còn có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm quy định nghĩa vụ chung thủy trong quan hệ hôn nhân. Do vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, việc bà Trần Phụng N yêu cầu được ly hôn ông Liêu Bảo P là có cơ sở để chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Xét đơn xin ly hôn của bà Trần Phụng N, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, có cơ sở xác định đây là vụ kiện hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn”; bị đơn - ông Liêu Bảo P có nơi cư trú tại số 504/56/10 Kinh Dương Vương, phường An Lạc A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Tân theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bà Trần Phụng N, ông Liêu Bảo P có đơn xin vắng mặt; Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Trần Phụng N, ông Liêu Bảo P là phù hợp.

[3]. Về nội dung: Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Phụng N đối với ông Liêu Bảo P, Hội đồng xét xử xét thấy, qua lời trình bày của bà Trần Phụng N, ông Liêu Bảo P thì trong quá trình chung sống, do tính tình không hợp nên hai bên đã phát sinh mâu thuẫn gay gắt, ông Liêu Bảo P thường xuyên ghen tuông vô cớ, kiếm chuyện chửi mắng, đánh dập bà Trần Phụng N. Ngoài ra ông Liêu Bảo P còn có hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi dẫn đến bị kết án 13 năm tù, hành vi của ông Liêu Bảo P không chỉ vi phạm pháp luật hình sự mà còn vi phạm đạo đức xã hội, vi phạm nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, chung thủy trong quan hệ hôn nhân. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa bà Trần Phụng N, ông Liêu Bảo P đã trầm trọng, không còn khả năng để hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay bà Trần Phụng N yêu cầu được ly hôn ông Liêu Bảo P, căn cứ theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở để chấp nhận.

[4]. Về con chung: Bà Trần Phụng N và ông Liêu Bảo P có 01 (một) con chung tên Liêu Thiện N, sinh ngày 16/01/2016.

Xét, từ khi ông Liêu Bảo P bị bắt giam cho đến nay, trẻ Liêu Thiện N trực tiếp được bà Trần Phụng N chăm sóc, nuôi dưỡng. Mặt khác, bản thân ông Liêu Bảo P hiện tại không có khả năng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và cũng đồng ý giao con chung nêu trên cho bà Trần Phụng N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử giao trẻ Liêu Thiện N, sinh ngày 16/01/2016 cho bà Trần Phụng N tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Do hiện tại ông Liêu Bảo P không có khả năng cấp dưỡng, bà Trần Phụng N cũng không yêu cầu cấp dưỡng nên ông Liêu Bảo P không phải cấp dưỡng nuôi con.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trần Phụng N, ông Liêu Bảo P tự khai không có, Hội đồng xét xử không xét.

[6]. Về án phí: Bà Trần Phụng N chịu 300,000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Lời đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Bình Tân là phù hợp quy định pháp luật nên thống nhất.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình:

- Căn cứ điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

Căn cứ Luật Thi hành án Dân sự.

 Tuyên xử 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của bà Trần Phụng N đối với ông Liêu Bảo P 

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Phụng N được ly hôn ông Liêu Bảo P (Giấy chứng nhận kết hôn số 42/2015, ngày 14/7/2015 do Ủy ban nhân dân phường H, Quận M M, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Trần Phụng N và ông Liêu Bảo P không còn giá trị sử dụng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật).

- Về con chung: Giao con chung tên Liêu Thiện N, sinh ngày 16/01/2016 cho bà Trần Phụng N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Liêu Bảo P không cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội Liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hoặc hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Trần Phụng N, ông Liêu Bảo P tự khai không có nên Hội đồng xét xử không xét.

2. Về án phí: Bà Trần Phụng N chịu 300,000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được cấn trừ vào số tiền đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0011746, ngày 03/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trần Phụng N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1160/2020/HNGĐ-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1160/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về