TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N – TP CẦN THƠ
BẢN ÁN 115/2020/HSST NGÀY 29/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 29 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 106/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 312/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. PHẠM LÝ VIỆT Đ (Tí), sinh năm 1990, tại: Đồng Tháp. Giới tính: n am HKTT: 108 ấp L, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.
Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Phạm Văn C (sn 1942) và bà Lý Thị Ánh V (sn 1954); Vợ: Nguyễn Thủy T1, sinh năm 1995 (đã ly hôn).
Tiền sự, tiền án: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2020, hiện đang bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ - Công an quận N.
2. PHẠM VĨNH TH (Hai Nồ), sinh năm 1995, tại TP Hồ Chí Minh. Giới tính: nam HKTT: 958/23C đường A, phường 13, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.
Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa 3/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông: Phạm Vĩnh H (sn 1975) và bà Đỗ Thị Ánh T (sn 1975); Vợ Nguyễn Thị Kiều T (sn 1995); Có 02 người con: Lớn, sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2020, hiện đang bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ - Công an quận N.
Bị hại :
1. Bùi Văn Đ1, sinh năm 1996 Địa chỉ: Ấp M, xã M, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.
Tạm trú: 42/6A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
2. Nguyễn Huỳnh Thái V, sinh năm 1995 Địa chỉ: Ấp Ô, xã L, huyện T, tỉnh An Giang.
Tạm trú: 42/6A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
3. Trần Vũ Nh, sinh năm 1992 HKTT: Xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau Địa chỉ: 42/6 đường T, phường H,quận N, thành phố Cần Thơ.
4. Nguyễn Thị Cà L, sinh năm 1998 Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.
Tạm trú: 42/6A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
(anh Đ1, chị V, chị L: vắng mặt; anh Nh có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
5. Đinh Hoàng Ng, sinh năm 1970 (có mặt) Địa chỉ: Số 141/1B đường 30/4 KV2, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2015, Phạm Lý Việt Đ có người bạn thuê trọ tài nhà trọ P (địa chỉ: 42/6A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ), nên Đ cũng thường xuyên qua lại nhà trọ này và phát hiện trong nhà trọ có để nhiều xe mô tô không có người trông giữ.
Vào khoảng 20 giờ ngày 30/3/2020 Phạm Lý Việt Đ đi từ nhà trọ trên đường 1A, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh đến nhà trọ P (Cần Thơ), rồi dùng thanh kim loại có hình lục giác gài vào khoen cửa của những phòng có người ở, sau đó dùng thanh đoản bằng kim loại bẻ khóa xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1 – 092.76 của anh Trần Vũ Nh, rồi chạy xe ra cất giấu trong bụi cây gần trạm thu phí (cầu Cần Thơ cũ).
Sau đó, Đ tiếp tục quay lại nhà trọ dùng thanh đoản bằng kim loại bẻ khóa xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ- đen biển số 83E1 – 117.06 của anh Bùi Văn Đ1, rồi chạy xe này đến gửi tại bãi giữ xe thuộc khu dân cư Hưng Phú, quận Cái Răng.
Gửi xe xong Đ tiếp tục quay lại nhà trọ P lấy tiếp xe mô tô kiểu dáng Honda Blade màu đen trắng biển số 67L1 -862.80 của chị Nguyễn Thị Cà L, Đ chỉ bứt dây điện xe dẫn ra đậu gần hẻm 50 Trần Hoàng Na, phường Hưng Lợi.
Với thủ đoạn trên, Đ quay lại nhà trọ tiếp tục lấy xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen trắng biển số 67K1 – 109.35 của chị Nguyễn Huỳnh Thái V rồi đem đến gửi tại bãi xe của bệnh viện Đa khoa thành phố Cần Thơ.
Sau đó Đ lấy xe mô tô Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1- 092.76 chạy về nhà trọ trên thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây Đ kể cho Th nghe vừa lấy trộm được xe mô tô này và kêu Th liên hệ để bán xe. Th đồng ý và hẹn gặp người tên L1 (chưa rõ địa chỉ) tại khu bãi cát ở phường 13, quận 6 thành phố Hồ Chí Minh để bán xe với giá 5.000.000 đồng. Khi bán được xe, Đ không chia tiền liền cho Th mà khi đi đến bến xe Miền Tây thì Đ đưa cho Th 2.000.000 đồng nói để đó khi nào xuống Cần Thơ lấy 02 xe mô tô còn lại bán rồi tính luôn. Đ nói với Th là còn trộm được 02 chiếc xe nữa đang gửi tại quận N và rủ Th đi Cần Thơ lấy về thành phố Hồ Chí Minh để bán thì Th đồng ý.
Khi cả hai cùng đi đến nơi Đ gửi xe là bãi xe bệnh viện Đa Khoa thành phố Cần Thơ để lấy xe nhãn hiệu Sirius màu đen trắng biển số 67K1 -109.35 ra ngoài thì bị lực lượng Công an mời về làm việc.
Tang vật thu giữ:
01 thanh kim loại hình trụ, màu trắng chiều dài 10cm; 02 thanh kim loại chữ L, thân hình lục giác, chiều dài 8x3 cm, đường kính 0,5cm; 02 thanh kim loại chữ L, thân hình lục giác, chiều dài 17cm, đường kính 0,5cm.
01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu trắng đen biển số 67L1 – 862.80;
01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen trắng biển số 67K1 – 109.35;
01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 83E1 -117.06.
01 điện thoại di động Nokia N1280 màu đen, số imei 358986432555173 Và 2.000.000 đồng tiền Việt Nam.
Kết luận định giá tài sản số 284/BKL – HĐĐG ngày 03/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:
Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1- 092.76 chất lượng còn lại 60%, giá trị còn lại 26.800.000 đồng, Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 83E1- 117.06, chất lượng còn lại 70%, giá trị còn lại 12.000.000 đồng.
Xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu trắng đen biển số 67L1 – 862.80, chất lượng còn lại 80%, giá trị còn lại 13.500.000 đồng.
Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 67K1 -109.35, chất lượng còn lại 60%, giá trị còn lại là 7.800.000 đồng. Tổng giá trị của 04 xe mô tô nêu trên là 60.100.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra Công an quận N, Đ và Th nhận tội.
Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận N ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô Yamaha Sirius, màu đỏ đen biển số 83E1 – 117.06 cho chủ sở hữu là anh Bùi Văn Đ1; 01 xe mô tô Honda Blade màu đen trắng biển số 67L1- 862.80 trả lại cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị Cà L; 01 xe mô tô Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 67K1- 109.35 cho chị Nguyễn Huỳnh Thái V.
Đối với xe mô tô Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1 -092.76 là vật chứng của vụ án, chưa thu hồi được, cơ quan điều tra – Công an quận N đã có thông báo truy tìm theo quy định.
Đối với người tên L, mua xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1- 092.76 mà bị cáo Đ và Th đã bán, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận N tiếp tục xác minh sẽ xử lý sau.
Về trách nhiệm dân sự, bị hại Nguyễn Huỳnh Thái V, Bùi Văn Đ1, Nguyễn Thị Cà L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm. Riêng anh Trần Vũ Nh yêu cầu bồi thường 25.000.000 đồng cho tài sản bị mất.
Tại bản cáo trạng số 112/CT - VKS ngày 16 tháng 6 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận N đã truy tố Phạm Lý Việt Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; truy tố Phạm Vĩnh Th về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa :
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo như Cáo trạng đã nêu. Đề nghị cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự do có thái độ thành khẩn khai báo tại phiên tòa.
Đối với bị cáo Phạm Lý Việt Đ: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo phạm tội “trộm cắp tài sản”, phạt bị cáo mức án từ 03 năm 06 tháng – 04 năm tù giam.
Đối với Phạm Vĩnh Th: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tuyên phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù giam.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị tuyên buộc bị cáo Đ có trách nhiệm bồi thường cho anh Trần Vũ Nh giá trị xe mô tô Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1 -092.76 đã bị mất là 25 triệu đồng.
Phía các bị cáo: Không có tranh luận gì với quan điểm luận tội của Đ1 diện Viện kiểm sát, tại lời nói sau cùng, bị cáo Th xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án khoan hồng để sớm được trở về hòa nhập cộng đồng, nuôi các con còn nhỏ.
Người bị hại – anh Nh: Ngoài việc yêu cầu bị cáo Đ bồi thường giá trị xe mô tô là 25 triệu đồng, còn yêu cầu xử lý nghiêm đối với các bị cáo, vì từ khi bị mất xe đến nay anh gặp rất nhiều khó khăn trong việc đi lại cũng như công việc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với kết luận điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, đã chứng minh được nội dung vụ án là có thật: Do biết nhà trọ P (địa chỉ: 42/6A đường T, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ), có để nhiều xe máy bên ngoài phòng, sơ hở trong việc quản lý tài sản, nên vào ngày 30/3/2020 Phạm Lý Việt Đ đi từ nhà trọ tại thành phố Hồ Chí Minh đến nhà trọ P, vào nhà trọ, rồi dùng thanh đoản bằng kim loại bẻ khóa xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1 -092.76 của anh Trần Vũ Nh, sau đó đem đi cất giấu. Cất giấu xe này xong, Đ tiếp tục quay trở lại nhà Trọ P dùng thanh đoản bẻ khóa lấy tiếp lần lượt các xe khác là: xe mô tô Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 83E1- 117.06 của anh Bùi Văn Đ1; xe mô tô Honda Blade màu trắng đen biển số 67L1 – 862.80 của chị Nguyễn Thị Cà L và xe mô tô Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 67K1 -109.35 của chị Nguyễn Huỳnh Thái V. Mỗi xe, sau khi lấy xong Đ đem đi gởi ở các bãi xe khác nhau, nhằm để có thời gian sẽ đem đi tiêu thụ. 04 xe mô tô mà Đ chiếm đoạt được có giá trị được định giá tổng cộng là 60.100.000 đồng. Do vậy, hành vi này của Phạm Lý Việt Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”, thuộc tình tiết định khung tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng”.
Đối với hành vi của Phạm Vĩnh Th: Th có mối quan hệ là bạn bè với Đ, biết rõ việc Đ vừa trộm cắp được các xe mô tô nêu trên, dù không có hứa hẹn về việc giúp Đ tiêu thụ nhưng khi nghe Đ kể và rủ đem xe đi bán, Th đã tích cực giúp Đ liên lạc, tìm người tiêu thụ các tài sản này, qua đó, đã giúp Đ bán được 01 xe mô tô Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1-092.76, với giá 5.000.000 đồng, đây là tài sản thuộc sở hữu của anh Trần Vũ Nh và là một trong 04 tài sản mà Phạm Lý Việt Đ đã trộm được tại nhà trọ P vào ngày 30/3/2020. Hành vi giúp cho Phạm Lý Việt Đ tiêu thụ các tài sản do trộm cắp mà có của Phạm Vĩnh Th đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích trên cho thấy Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân quận N đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác; xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo đều là người trưởng thành, đủ khả năng nhận thức về hành vi của mình, biết việc trộm cắp tài sản của người khác và giúp người khác tiêu thụ tài sản do phạm pháp mà có là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do vậy những hành vi này cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện mới đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo. Trong vụ án, bị cáo Đ là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp nhiều lần, với giá trị tổng cộng là 60.100.000 đồng, nên mức án dành cho bị cáo Đ phải cao hơn, nghiêm khắc hơn.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, nên đều được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
Ghi nhận việc Cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại tài sản cho các chủ sở hữu là anh Bùi Văn Đ1, chị Nguyễn Thị Cà L, chị Nguyễn Huỳnh Thái V. Riêng đối với xe mô tô Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 69K1 -092.76 của anh Trần Vũ Nh, không thu hồi được, nên anh Nh yêu cầu bị cáo Đ phải bồi thường 25.000.000 đồng là phù hợp, có cơ sở để chấp nhận.
[5] Về xử lý vật chứng:
- 02 thanh kim loại chữ L, thân hình lục giác, chiều dài 8x3 cm, đường kính 0,5cm và 02 thanh kim loại chữ L, thân hình lục giác, chiều dài 17x3cm, đường kính 0,5cm; 01 thanh kim loại hình trụ màu trắng, chiều dài 10cm là công cụ dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động Nokia N1280 màu đen, số imei 358986432555173 của bị cáo Th, là phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- 2.000.000 (hai triệu) đồng tiền Việt Nam, là tiền thu giữ được trên người của bị cáo Đ. Đ khai nhận đây là tiền còn lại do bán xe mô tô 69K1 -092.76 của anh Trần Vũ Nh. Do vậy cần tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án đối với yêu cầu bồi thường của anh Nh.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
* Tuyên bố : Phạm Lý Việt Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Phạm Vĩnh Th phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”
1. Áp dụng : điểm c, khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt : Phạm Lý Việt Đ: 03 năm 06 tháng tù giam.
- Thời hạn phạt tù tính từ ngày 01/4/2020.
2. Áp dụng : khoản 1 Điều 323, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự
Xử phạt: Phạm Vĩnh Th: 01 năm 06 tháng tù giam.
-Thời hạn phạt tù tính từ ngày 01/4/2020.
* Về trách nhiệm dân sự :
- Buộc Phạm Lý Việt Đ phải có nghĩa vụ bồi thường cho anh Trần Vũ Nh giá trị xe mô tô hiệu Yamaha Exciter là 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).
* Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tạm giữ số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền Việt Nam, để đảm bảo thi hành án cho anh Trần Vũ Nh, khi án có hiệu lực.
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 02 thanh kim loại chữ L có thân hình lục giác, chiềm dài 8x3cm, đường kính 0,5cm.
+ 02 thanh kim loại hình chữ L thân hình lục giác, chiều dài 17 x3cm, đường kính 0,5cm.
+ 01 thanh kim loại hình trụ màu trắng, chiều dài 10cm.
- Tịch thu sung công quỹ: 01 điện thoại di động hiệu Nokia N1208 màu đen, số ime 358986432555173.
Án phí hình sự sơ thẩm :
- Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).
Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 115/2020/HSST ngày 29/07/2020 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 115/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về