Bản án 115/2018/HSST ngày 28/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 115/2018/HSST NGÀY 28/12/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 120/2018/TLST – HS ngày 23 tháng 11 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra  xét xử số 116/2018/QĐXXST ngày 17 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo :

Lê Thị H, sinh ngày 16 tháng 7 năm 1999

Nơi cư trú: thôn H, xã T.L, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình

Nghề nghiệp: Lao động tự do ; Trình độ văn hóa : 11/12 ; Dân tộc: Kinh

Giới tính: Nữ ; Tôn giáo : Không ; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông Lê Hữu K, sinh năm 1968 và con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1972. Đều cư trú tại thôn H, xã T.L, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, bị cáo chưa có chồng, con

Tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã ngày 31/10/2018, hiện đang bị tạm tại trại giam công an tỉnh Thái Bình. ( Có mặt )

Người bị hại

Cháu: Vũ Minh T, sinh năm 2001 ( Có mặt )

Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

Bà: Bùi Thị H ( là mẹ đẻ của cháu Thư) ( Vắng mặt ) Đều cư trú tại: thôn a, xã T.V, huyện TT, tỉnh TB

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Anh: Đỗ Huy C, sinh năm 1987 ( Vắng mặt ) Cư trú tại: số A, khu 6, thị trấn D, huyện TT, tỉnh TB

Chị Nguyễn Thị Lý, sinh năm 1972 ( Có mặt ) Nơi cư trú: thôn H, xã T.L, huyện TT, tỉnh TB

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do quen biết nhau từ trước nên chiều ngày 15/8/2018, Lê Thị H đến nhà chị Vũ Minh T chơi, trong lúc ngồi chơi H mượn chiếc điện thoại OPPO A37 của T để sử dụng, đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, H nhìn thấy chiếc điện thoại Iphone 6 màu xám của T để trên mặt tủ gần bàn thờ nên có ý định trộm cắp tài sản. H đến vị trí gần tủ thờ lấy chiếc điện thoại Iphone cho vào túi sách mang theo từ trước và cất luôn chiếc điện thoại OPPO vào túi sách rồi đi ra cửa nhờ T chở về ngã tư D, khi xuống xe, H đi bộ đến cửa hàng điện thoại của anh Đỗ Huy C bán chiếc điện thoại Iphone 6 vừa trộm cắp được cho anh C với giá 600.000 đồng, sau đó H bắt xe lên thành phố TB bán chiếc điện thoại OPPO A37 cho một người không quen biết với giá 800.000 đồng. Toàn bộ số tiền trên H chi tiêu cá nhân hết. Sau khi trộm cắp H bỏ trốn đến ngày 31/10/2018 thì H bị bắt theo lệnh truy nã

Tại bản kết luận định giá tài sản số 30/KL- ĐG ngày 05/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Tổng số tài sản do H trộm cắp có giá trị là 4.500.000 đồng

Bản cáo trạng số 116/ CT- VKSTT ngày 22 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố Lê Thị H về tội " Trộm cắp tài sản " theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Hà khai nhận: Do quen biết nhau từ trước nên chiều ngày 15/8/2018, H đến nhà chị Vũ Minh T chơi, trong lúc ngồi chơi H mượn chiếc điện thoại OPPO A37 của T để sử dụng, trước khi ra về H nhìn thấy chiếc điện thoại Iphone 6 màu xám của T để trên mặt tủ gần bàn thờ nên có ý định trộm cắp tài sản. H lấy chiếc điện thoại Iphone 6 cùng chiếc điện thoại OPPO A37 trước đó H đã mượn của chị T cho vào túi sách mang theo rồi nhờ T chở về nhà. Sau đó H bán chiếc điện thoại Iphone 6 cho anh C với giá 600.000 đồng, bán chiếc điện thoại OPPO A37 cho một người không quen biết với giá 800.000 đồng.

Chị Vũ Minh T trình bày : Chị xác định số tài sản của chị bị H trộm cắp là 02 chiếc điện thoại Iphone 6 và OPPO A37, chị đã bỏ số tiền 600.000 đồng chuộc chiếc điện thoại Iphone 6 do bị cáo bán cho anh C, ngoài ra chị đề nghị bị cáo phải bồi thường giá trị chiếc điện thoại OPPO A37 mà bị cáo trộm cắp của chị không thu hồi lại được có giá trị là 1.000.000 đồng, tổng số tiền chị yêu cầu bị cáo H phải bồi thường cho chị là 1.600.000 đồng

Chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị là mẹ của bị cáo H, tại phiên tòa chị đã tự nguyện thay bị cáo H trả cho chị Vũ Minh T số tiền 1.600.000 đồng để bồi thường do chị T yêu cầu, chị không yêu cầu bị cáo H phải trả lại chị số tiền trên cho chị.

Luận tội của Kiểm sát viên: Vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố với bị cáo về tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng. Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm b, s khoản 1 Điều 51 Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Thị H từ 06 đến 09 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có thu nhập và tài sản riêng, ghi nhận sự tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả của gia đình bị cáo và người bị hại, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác vắng mặt được công bố tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dan huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Lời khai của bị cáo Lê Thị H tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau : Đơn đề nghị và lời khai của người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại; Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Lợi dụng sơ hở của người bị hại, bị cáo Lê Thị H đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 6, 01 chiếc điện thoại OPPO A37 của chị Vũ Minh T, tổng số tài sản bị cáo trộm cắp của chị T có giá trị là 4.500.000 đồng. Hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản ” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5]. Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân, sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã. Vì vậy cần thiết phải quyết định một hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi cân nhắc hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo H đã tác động đến gia đình bồi thường thiệt hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo phấn đấu trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo làm nghề lao động tự do, không có thu nhập cũng như không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

[7].Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại giữa gia đình bị cáo và người bị hại. Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị L là mẹ của bị cáo H đã trực tiếp bồi thường số tiền 1.600.000 đồng cho chị Vũ Minh T, chị T nhận đủ số tiền và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[8]. Đối với anh Đỗ Huy C đã mua chiếc điện thoại Iphone 6 của bị cáo, anh C không biết chiếc điện thoại trên là do phạm tội mà có nên cơ quan điều tra không xử lý anh C là đúng quy định của pháp luật.

[9].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội " Trộm cắp tài sản "

Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự .

Xử phạt bị cáo Lê Thị H 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2018

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận sự tự nguyện giữa gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Chị Nguyễn Thị L là mẹ đẻ của bị cáo đã bồi thường số tiền 1.600.000 đồng cho chị Vũ Minh T, chị T đã nhận đủ số tiền trên.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Thị H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .

Về quyền kháng cáo bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo; người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2018/HSST ngày 28/12/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:115/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về